Nhà máy Thủy điện Hòa Bình. (Ảnh: Hồng Duyên)
Những
mốc son đáng nhớ
Ngược thời
gian về thế kỷ trước, sau khi hòa bình lập lại ở miền bắc, Đảng và Nhà nước ta
đã khẳng định: Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thì "điện khí hóa” phải đi trước
một bước. Từ năm 1958, Chính phủ đã giao Bộ Thủy lợi cử cán bộ tiến hành nghiên
cứu địa chất trên toàn bộ lưu vực sông Đà và Hòa Bình đã được chọn là nơi xây
dựng công trình thủy điện đầu tiên trên dòng sông Đà hùng vĩ. Đến ngày
2-9-1971, mũi khoan thăm dò đầu tiên được thực hiện. Để chuẩn bị cơ sở vật
chất, nhân lực cho công trình, hàng vạn thanh niên của các tỉnh đồng bằng Bắc
Bộ đã được tuyển chọn, đào tạo để trở thành những công nhân kỹ thuật phục vụ
công trình. Nhất là sự đóng góp của các chuyên gia, kỹ sư người Nga. Hàng loạt
công trình phụ trợ như nhà ở cho cán bộ, công nhân, viên chức, trường học, bệnh
viện và khu chuyên gia Nga được gấp rút xây dựng phục vụ công trường. Ngày
6-11-1979, cả nước hướng về Hòa Bình mừng ngày khởi công xây dựng công trình
thủy điện lớn nhất Đông - Nam Á.
Sau bốn năm
thi công liên tục, đầu năm 1983 đã hoàn thành ngăn sông Đà đợt một và đến năm
1986 tiến hành ngăn sông Đà đợt hai. Đây là thời điểm vô cùng quan trọng; hàng
nghìn kỹ sư, công nhân, bộ đội và chuyên gia Nga mừng vui khôn xiết. Từ đó, cả
công trường sôi nổi khí thế thi công, chạy đua với mùa lũ hằng năm, thực hiện
mục tiêu đưa các tổ máy vào phát điện theo kế hoạch. Những khẩu hiệu bằng hai
thứ tiếng Việt, Nga xuất hiện trên khắp công trường như: "Vinh quang thay những
người xây dựng thủy điện”, "Tất cả cho mục tiêu phát điện tổ máy số 1 đúng tiến
độ”... Mỗi vị trí thi công là một mặt trận, dù khó khăn gian khổ và cả sự hy
sinh nhưng tất cả cán bộ, công nhân viên và các chuyên gia đều không ai rời vị
trí, kể cả khi xảy ra sự cố. Ngày 30-12-1988, tổ máy số 1 bắt đầu phát điện,
tiếp theo, các tổ máy lần lượt khởi động và vận hành.
Ngày
20-12-1994, đất nước phấn khởi chào mừng sự kiện khánh thành Công trình Thủy
điện Hòa Bình trên sông Đà, đánh dấu kết quả của 15 năm lao động không ngừng
nghỉ vì dòng điện ngày mai của Tổ quốc.
Nhiều tấm
gương lao động sáng tạo Nga, Việt Nam được phong tặng danh hiệu Anh hùng ngay
tại công trường. 168 cán bộ, công nhân, viên chức, trong đó có 11 chuyên gia
Nga đã ngã xuống trong quá trình xây dựng công trình Thủy điện Hòa Bình, cống
hiến hết mình trong lao động.
Thủy điện
Hòa Bình đã quản lý khai thác và vận hành an toàn, phát huy hiệu quả của một
công trình tổng hợp nhiều chức năng, vừa chống lũ, giảm nhẹ thiên tai, bảo đảm
an toàn cho vùng đồng bằng Bắc Bộ và Thủ đô Hà Nội, vừa sản xuất điện, đồng
thời trữ nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và bảo đảm giao thông đường thủy
trên tuyến sông Đà.
Và những
kỷ niệm đẹp của tình hữu nghị
Nhớ lại
thời kỳ xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình, ông Bùi Thức Khiết, nguyên là Phó
Ban Quản lý dự án, nguyên Phó Ban Quản lý dự án, Giám đốc đầu tiên của Nhà máy
thủy điện Hòa Bình xúc động kể lại: "Khó có thể nói hết những gì mà những người
bạn Nga đã giúp đỡ Việt Nam ở Công trình Thủy điện Hòa Bình. Họ là người bạn
lớn, họ giúp chúng ta cả về trí tuệ, kinh nghiệm và công sức. Hồi đầu, những kỹ
sư, công nhân người Nga họ sang làm trực tiếp mọi việc, từ cung cấp điện cho
công trường, nổ mìn, dọn đá đến việc tự lái máy xúc, máy ủi, sửa chữa ô-tô...
Sau này, họ đào tạo các đội kỹ sư, công nhân của Việt Nam tham gia để sau này
tiếp quản. Các chuyên gia địa chất, địa hình, thủy năng, khoan phun của Nga rất
giỏi, giàu kinh nghiệm. Ở thời kỳ đó, nếu không phải là Liên Xô thì khó có nước
nào giúp Việt Nam làm được việc lớn như vậy.
Ông Bạch
Xuân Lập, có ba năm lái xe cho các chuyên gia Nga thời kỳ đó bồi hồi nhớ lại:
"Họ làm việc rất nghiêm túc, chúng tôi học được từ họ rất nhiều về phong cách,
tác phong làm việc. Ngoài giờ làm việc, họ rất thân ái, chân tình. Nhiều lần
tôi được mời lên gia đình họ ở khu chuyên gia để ăn cơm do họ nấu. Họ tặng đường,
sữa và thịt cho tôi. Hy vọng thế hệ trẻ sau này luôn nhớ và biết ơn những người
bạn Nga đáng kính”.
Ông Nguyễn
Văn Đức, sau khi tốt nghiệp chuyên ngành cơ khí bậc cao của Trường đại học sư
phạm Kỹ thuật Nam Định đã xung phong lên Dự án Thủy điện Hòa Bình công tác từ
năm 1983-1987. Nay là giảng viên xưởng thực hành của Trường đại học Điện Lực,
ông tâm sự: "Hồi đó, tôi là kỹ sư cơ khí bậc cao của Việt Nam, song, cũng chỉ
biết công nghệ cắt bằng axetilen (cắt bằng đất đèn), nhưng các kỹ sư Nga họ đã
cắt hơi bằng xăng và hiệu quả cao. Sau này, họ đã dạy chúng tôi kỹ thuật này.
Họ làm việc với tinh thần rất cao, rất trách nhiệm mà chưa bao giờ thấy than
vãn về sự vất vả. Còn nhớ, chiến dịch lấp sông Đà đợt hai (90 ngày đêm), tất cả
đều chung một tinh thần quyết tâm cao, ăn ngủ tại công trường, hừng hực khí thế
gần như quên cả mệt mỏi. Những bài hát, trên công trường như: "Ca Chiu Sa”,
"Đôi Bờ” và "Tiếng đàn Ba lai ca trên sông Đà” vẫn còn vang vọng mãi trong ký
ức tôi cho đến bây giờ. Suốt quá trình làm việc, tôi nhận thấy ở họ là những
con người thật thà, thẳng thắn nhưng lại rất lãng mạn”.
Giờ đây, là
giảng viên một trường đại học trong ngành điện lực, sắp đến tuổi về hưu, trong
các giờ dạy thực hành, ông Nguyễn Văn Đức vẫn kể lại cho các thế hệ sinh viên một
cách đầy tự hào về những năm tháng tham gia xây dựng nhà máy. Ở đó có những
người bạn Nga vĩ đại đã giúp đỡ chúng ta để có được công trình mang tầm vóc
quốc tế, là biểu tượng hào hùng của ngành điện lực, góp phần phát triển đất
nước.
Thủy điện Hòa Bình có
tám tổ máy, mỗi tổ 240 MW, tổng công suất phát điện 1.920 MW; sản lượng điện
phát hằng năm hơn 9,5 tỷ KWh. Hồ chứa nước có dung tích 9,8 tỷ m3, trong đó
dung tích phòng lũ 5,6 tỷ m3, tổng lượng nước vào hồ trung bình hàng năm 57,5
tỷ m3, mức nước dâng bình thường
|
TheoNhandan