Lễ rước kiệu Thành Hoàng làng trong Lễ Hội Khai hạ ở Mường Bi

Lễ rước kiệu Thành Hoàng làng trong Lễ Hội Khai hạ ở Mường Bi

1/ Lễ nạ mụ:

 

Có dịp chúng ta vào bất kỳ một ngôi nhà sàn của người mường Bi nào hễ ngước nhìn lên mái gianh gian trong sẽ thấy những giỏ đan mắt cáo, nguyên liệu bằng tre nứa cắm ở phía trên đoàn tay, người mường gọi cái đó là nạ mụ ( giả làm mặt người giữ vía). Bao nhiêu nạ mụ là bấy nhiêu người con.

 

Lễ nạ mụ tổ chức sau 1 tuần sau khi đứa trẻ ra đời. Gia chủ mổ gà cúng vía đứa trẻ, đồng thời làm một nạ mụ trong đựng một đầu ngọn mía, một đôi đũa bông, người mường Bi quan niệm vía của đứa trẻ do một bà mụ trên trời cai quả. Làm nạ mụ là làm nhà để bà ta biết chỗ ở của vía, thỉnh thoảng bà về săn sóc cho chủ vía ít ốm đau, mau ăn chóng khoẻ.

 

Nạ mụ của mỗi người để trong nhà cho tới lúc về già. Khi ốm đau bệnh tật người già làm lễ giữ vía (gọi là làm mụ thố). Nạ mụ người già con cháu đưa thêm vào một mảnh vải gọi là thêm số, thêm phận xiên qua một quả trứng. Ngoài ra có bỏ thêm vài cành lá cây si và cuộn chỉ tơ vào nạ mụ. Dân gian truyền rằng: nhà mụ trú ở gốc cây si chỉ vì cây si đổ nên vía mới xấu, phải làm lễ kéo cây si dậy sức khoẻ của chủ vía mới trở lại bình thường. Nạ mụ có cuộn dây là vì thế.

 

Việc làm nạ mụ truyền thuyết lý giải như sau: bà mụ ở trên trời cao, khi xuống trần gian phải qua một con suối, bà ấy lấy mía làm cầu, lấy lau làm gậy đỡ và dựng nhà phên nứa để ở do vậy làm nạ mụ có ý tượng trưng cho những thứ đã kể trên.

 

Người đến mo gọi mụ ở trên cung trăng xuống. Hôm mo có một cối giã vừng để bên khi cần mo giã cối xua đuổi ma xấu đi.

 

2. Lễ cầu mát:

 

Một khi làng xóm nào đó của người Mường Bi bị hoả hoạn, dân làng cho rằng: do đất ở nóng quá phát hoả nên phải làm lễ cầu mát. Mọi thủ tục cúng, cầu xong dân mường sẽ chọn một lão nông mang con trâu ra cày một lối xung quanh xóm và mọi người lấy nước đổ vào luống cày ấy. Lời mo trong hành lễ cầu cả bốn thần: trời- đất- nước- lửa phù trợ cho làng yên vui, mát mẻ.

 

3. Lễ nhóm lửa:

 

Gia chủ làm nhà mới khi dựng các cột bếp bao giờ cũng có lễ lấy một bẹ chuối cắt hình ba con cá kẹp vào một cái cắp nứa buộc lên cột bếp. Già làng bảo làm thể để người nhà đỡ bị hoả hoạn. Ba con cá là để dành cho ba ông bà đầu rau ăn. Còn ở cột cái của bếp họ đặt một quả bí xanh phớt trắng. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm một lễ nhóm lửa, cầu thần bếp cho đặt ba hòn đầu rau và một hòn đá cái giữ vía chủ nhà. Ngoài ra, còn lấy vỏ cây núc nắc bỏ bốn góc bếp và giữ bếp. Lửa cháy ngay là may. Chẳng may tắt phải mo thần bếp một chặng dài nữa. Lửa nhóm bếp đã cháy sáng ngôi nhà, cụ ta ăn một bát cơm, một quả trứng, sau đó cụ sai con cháu vào trải chiếu cho cụ nằm nghỉ ở sàn đến sáng mai dậy sớm gọi con cháu dậy làm cơm ăn. Có khi cụ chỉ giả ngủ một lúc rồi trở dậy nói: “Trời sáng rồi, đêm qua ngủ ngon lắm.”

 

Đêm ấy trong căn nhà mới, dưới ánh sáng của ngọn lửa bếp, gia chủ mời mọi người đến vui uống rượu cần. Gia chủ còn vãi thóc đã rang cho bọn trẻ nhặt ăn và bê rổ ốc luộc để các bà vừa nhảy ăn, vừa nói chuyện.

 

4. Hội chùa Kè: Là một hội lớn. Hàng năm tổ chức vào ngày 16/2 âm lịch, thu hút dân chúng mấy xã vùng thượng mường Bi về dự. Chùa lợp gianh, tương truyền ở trong đó có hòn đá gọi là bụt mọc. Chùa không có sư chủ trì. Người về dự tự cầu có nhắc câu: A di đà phật. Cái hấp dẫn chính của hội chùa Kè là các hình thức sinh hoạt văn hoá. Ở đó hàng năm có tổ chức vui ném còn cho trai gái trước cửa nhà phật. Có bãi đánh quay cho các em 10 đến 18 tuổi. Có bãi thi bắn tên và bắn súng hoả mai. Ai bắn trúng đích được thưởng uống một gáo rượu cần. Năm nào được mùa, mổ trâu tế phật có tổ chức vui thổi khèn, séc Pùa. Người đến dự hội gồm đủ loại người, ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Các bố mế vui vầy quanh cảnh rượu cần. Con trai quan cun, nhà giầu có khoe những khẩu súng hoả mai dài 7 đến 9 đốt và cùng nhau trổ tài bắn súng. Trai gái thường dân say sưa với trái còn và những cái nỏ được vót gọt cầu kỳ. Các bà, các cô khoe những bộ váy áo mới, thể hiện tài thêu thùa canh cửi của mình.

 

Đây là ngày hội chùa lớn đã đi sâu vào ký ức nhiều người vùng thượng mường Bi

 

Như trên, chúng tôi đã dẫn ra những hội, lễ tiêu biểu của vùng Bi, có thể nói, xưa, những lễ nghi mang tình hội ở vùng này klhông rõ. Đọng trong ký ức của già mường có ba lễ lớn gọi là có mang tính hội một chút. Hội xuống đồng sửa mương Lò ở Địch Giáo thuần tuý lấy số người đông của bẩy xã thung lũng làm nền cho hội nên có không khí hội mà thiếu các hành động hội. Lẽ rước kiệu Thánh Tản ở xã Phong Phú, loại đi cái vui vẻ đương nhiên của tục uống rượu cần vốn nhà nào ở mường Bi cũng diễn ra thì hành động hội hiện lên mở nhạt qua các đường còn bay qua lại trước đền. Hội Chù Kè ở xã Phú Vinh tuy phong phú trò vui nhưng lại ngẫu hứng chưa có quy mô tổ chức nên không điển hình cho một hội của toàn mường.

 

Ngược lại, cái khắc rõ vào đời sống văn hoá người mường Bi là hướng về lễ, những lễ nghi nông nghiệp hay tín ngưỡng, tục thờ, thu gọn trong một gia đình ( tết cơm mới , làm vía, dựng nhà…) hay mở rộng ra trong một xóm, một mường nhỏ ( lễ cầu mưa - cầu mát ...) - Những ngày lễ ấy, con người chấp nhanạ một thể thức trang nghiêm, được đặt ra như một tiền lệ hơn là sự bộc cảm, sự phô diễn những tài năng của cá nhân trước thiên nhiên và con người để hướng con người tới cái đẹp của nghệ thuật mà ở bất cứ hội nào cũng phải diễn ra. Điều ấy, âu cũng phản ánh phần nào cái nếp sống thâm trầm, chừng mực, biết khiêm nhường, hướng vào chiều sâu nội tâm của con người mường Bi. đấy là một giả đinh.

 

                                                               HBĐT tổng hợp

Các tin khác


Thủy điện Hòa Bình - niềm tự hào công trình thế kỷ

(HBĐT) - Xuyên suốt quá trình 135 năm thành lập tỉnh và 30 năm tái lập tỉnh, công trình thủy điện Hòa Bình như một dấu ấn đáng tự hào, ghi dấu mốc son chói lọi trong bản trường ca chinh phục sông Đà, góp sức xây dựng, phát triển quê hương, đất nước.

Những nét khái quát về sự hình thành tỉnh Hòa Bình

(HBĐT) - Hòa Bình là tỉnh thuộc tiểu vùng Tây Bắc của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, có vị trí quan trọng, chiến lược về kinh tế, chính trị, AN-QP... Tỉnh là nơi có nền Văn hoá Hòa Bình nổi tiếng - cái nôi văn hoá của người Việt cổ.

Tự hào cuộc khởi nghĩa Tổng Kiêm - Đốc Bang (1909 - 1910)

(HBĐT) - Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc của Tổ quốc, với truyền thống yêu nước, ngay từ khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ tại đây, Nhân dân Hòa Bình đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy chống thực dân và chế độ lang đạo hà khắc. Trong dòng chảy lịch sử hào hùng 135 năm thành lập tỉnh, cuộc khởi nghĩa Tổng Kiêm - Đốc Bang (1909 - 1910) là một mốc son chói lọi về lòng yêu nước của Nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình.

Đảng bộ tỉnh - những mốc son lịch sử

(HBĐT) - Với truyền thống vẻ vang trong quá trình xây dựng và phát triển, Đảng bộ, Nhân dân các dân tộc trong tỉnh bằng những hành động, việc làm cụ thể, nắm bắt các cơ hội phát triển, trách nhiệm, nỗ lực thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, xây dựng tỉnh phát triển nhanh, bền vững.

Hòa Bình giai đoạn từ năm 2015 đến nay - những dấu ấn tự hào

(HBĐT) - Từ năm 2015 đến nay, với sự đoàn kết thống nhất, cùng nỗ lực vượt bậc của toàn tỉnh, Hòa Bình tiếp tục thu được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực KT-XH, QP-AN, xây dựng hệ thống chính trị. Kinh tế tăng trưởng khá và bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; các ngành, lĩnh vực sản xuất đều phát triển. Hoạt động xúc tiến đầu tư trong giai đoạn này được đẩy mạnh, môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện; kết cấu hạ tầng kỹ thuật được đầu tư, quan tâm với nhiều công trình quan trọng. Hoạt động đối ngoại được mở rộng.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục