(HBĐT) - Lịch của người Mường gọi là sách đoi, được sáng tạo dựa trên quan sát chuyển động của sao đoi. Lịch được làm bằng 12 thẻ tre, mỗi thẻ là một hang, trong đó có một số ngày trong tháng được khắc bằng những ký hiệu khác nhau để đoán định ngày tốt, xấu cho khởi sự công việc.
Người Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở nơi khác, gọi là cách tính "ngày lùi tháng tới”. Tháng Giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 lịch Mường các nơi và tháng 10 âm lịch của người Kinh.
Lịch Mường Bi, theo truyền thuyết Mường, được hình thành vào thời kỳ đầu vua Dịt Dàng của người Mường. Lịch được hình thành đầu tiên ở Mường Bi, tức là được hình thành vào thời Hùng Vương dựng nước. Truyện kể rằng: Vào thời Hùng Vương dựng nước, nhà vua có lần dạo thuyền trên sông, do sơ ý đã để rơi một viên ngọc quý. Nhiều thợ lặn tài giỏi được gọi đến, song không một ai tìm ra. Nhà vua bèn triệu tất cả các đạo sĩ nổi tiếng trong nước để dò tìm viên ngọc, nhưng đều vô hiệu. Một hôm, có thổ lang Mường Bi, tài giỏi nổi tiếng trong Mường, xin vào yết kiến nhà vua. Sau khi xem một quẻ bằng chân gà, vị thổ lang này đã tâu với vua rằng, viên ngọc đó đang đợi giờ tốt để trở về với vua. Đến ngày thứ 6, kể từ ngày viên thổ lang gieo quẻ, có người dân chài đem dâng vua một con cá chép to, vừa bắt được ở dưới sông. Người làm bếp của vua mổ cá, thấy trong bụng cá một viên ngọc sáng rực. Tìm được ngọc, nhà vua mừng khôn xiết, cho gọi viên thổ lang vào thưởng nhiều châu báu ngọc ngà, nhưng thổ lang Mường Bi đều từ chối, chỉ xin nhà vua gia ân một điều để cho dân vùng thổ lang cai quản ngày thì lui lại một ngày và tháng lại đến sớm hơn ba tháng. Thấy việc có nhiều ý nghĩa, nhà vua ưng thuận liền cho lập đàn tế cáo trời đất chứng giám. Từ đó, người Mường ở Mường Bi lập lịch và giữ mãi về sau này.
Là cư dân bản địa, có lịch sử lâu đời, sớm đạt đến trình độ văn minh, người Mường có lịch riêng là điều có nhiều cơ sở. Lịch Mường Bi khá chi tiết, định rõ giờ, tuần, tháng, quý và năm. Một ngày của người Mường có 16 giờ (một giờ của người Mường gần bằng 1,5 giờ của người Kinh); mỗi tháng có 29 - 30 ngày, chia làm 3 tuần, mỗi tuần có 10 ngày; mỗi năm có 12 tháng, chia làm 4 quý. Lịch có đặc điểm là: Lịch trăng theo tháng và tuần (người Mường quan sát sự vận động của trăng để định ra lịch) và lịch hậu vật theo năm. Lịch Mường Bi có ảnh hưởng sâu sắc đến con người và trong các sinh hoạt của xã hội Mường. Lịch Mường Bi cũng tự giới hạn không gian của nó. Thành ngữ "ngày lùi tháng tới” không mang tính phổ biến đến mức đại diện cho các vùng Mường mà chỉ tồn tại ở Mường Bi, nó có ý nghĩa thực tiễn trong nông lịch, chi phối các sinh hoạt văn hóa vùng Mường Bi.
Với những giá trị độc đáo, đặc biệt đó, UBND tỉnh đã ban hành Công văn số 841/UBND-KGVX, ngày 1/6/2021 về việc đồng ý cho chủ trương Lập hồ sơ khoa học đối với tri thức dân gian lịch tre dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình (cùng với Lễ hội truyền thống Khai Hạ, dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình; nghệ thuật Múa Keeng Loóng dân tộc Thái, huyện Mai Châu) là di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu tỉnh Hòa Bình đề nghị đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Bên cạnh đó còn nhiều di sản khác của dân tộc Mường được đánh giá cao, với những nét bản sắc văn hóa độc đáo như: Trống Mường, Mộ Mường, chữ Viết - tiếng nói, làng Mường… Chính những điều mà cha ông để lại, đã làm giàu thêm bản sắc văn hóa Mường, không chỉ tạo sự hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, nhà khảo cổ, sưu tầm dân gian… mà còn tạo được sự thích thú, say mê của du khách gần xa mỗi khi đến Hòa Bình.
V.T (TH)
(HBĐT) - Ở khu vực người Mường, nhà nóc (gia đình), họ tộc là hạt nhân cơ bản và nền tảng trong xã hội cổ truyền của người Mường ở Hòa Bình. Mỗi nhà nóc gồm cha mẹ và các con trai, gái, dâu, rể cùng sống chung dưới một mái nhà, có chung một nền kinh tế. Các nhà nóc có chung một dòng máu về phía bố, tập hợp nhau thành họ tộc, chung sức khai phá đất đai và họ tộc ấy có thể là chủ nhân duy nhất của một điểm dân cư hoặc phân tán, xen kẽ với nhiều dòng họ khác trong một động lớn mà sau này gọi là Mường, có khi tới hàng trăm làng xóm lớn nhỏ.
(HBĐT) - Với người Mường ở Hòa Bình, các khu dân cư (KDC) cổ truyền gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước, chăn nuôi, săn bắn và hái lượm tự cung tự cấp, mang nặng tính sơ khai, thuộc dạng tổ chức xã hội nông thôn miền núi. Do đặc điểm địa hình và phương thức sản xuất, nên các KDC của người Mường còn pha chút dáng dấp của tổ chức nông thôn theo dạng họ tộc cùng huyết thống.
(HBĐT) - Sau thời đại đá (thời tiền sử) là thời đại kim khí (thời sơ sử). Thời đại kim khí chính là thời kỳ hình thành và phát triển của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc.
(HBĐT) - Trong thời kỳ tiền sử của Hòa Bình, nổi bật nhất và đặc trưng nhất là nền "Văn hóa Hòa Bình". Người Hòa Bình tự hào về lịch sử lâu đời của mình, tự hào là địa điểm đầu tiên được phát hiện và được mang tên của một nền văn hóa đặc trưng không chỉ cho riêng Việt Nam, mà cho cả các nước Đông Nam Á lục địa và phía Nam Trung Quốc: Văn hóa Hòa Bình.
Kể từ năm 1927, chúng ta đã bắt đầu biết đến một "Thời đại đá trong tỉnh Hòa Bình - Bắc Kỳ” của M.Colani. Ngày 30/1/1932, nền "Văn hóa Hòa Bình” đã được Đại hội các nhà tiền sử Viễn Đông lần thứ nhất họp tại Hà Nội thừa nhận.
(HBĐT) - Hòa Bình là tỉnh thuộc tiểu vùng Tây Bắc của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, có vị trí quan trọng và chiến lược về kinh tế, chính trị, AN-QP... Tỉnh Hòa Bình là nơi có nền văn hoá Hòa Bình nổi tiếng - cái nôi văn hoá của người Việt cổ; là vùng đất của sử thi Đẻ đất đẻ nước. Hòa Bình còn là vùng đất âm vang tiếng cồng, chiêng của những lễ hội dân gian truyền thống của các dân tộc Tây Bắc; là quê hương của những làn điệu dân ca, trường ca, truyện thơ mang đậm nét văn hóa dân tộc và giàu chất nhân văn sâu sắc.
(HBĐT) - Hòa Bình là tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống. Do đó, kết cấu dân số theo dân tộc (tộc người) được xem là một trong những nét nổi bật trong dân số học ở Hòa Bình. Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số năm 2009, Hòa Bình có 6 dân tộc có số dân đông hơn cả là dân tộc Mường (64%), dân tộc Kinh (26%), dân tộc Thái (4%), dân tộc Tày (3%), dân tộc Dao (2%), dân tộc Mông (0,3%); các dân tộc khác chiếm tỷ lệ rất thấp (cộng chung là 0,7%).