Một giờ lên lớp ở trường TH Kim Đồng – thị trấn Đà Bắc.
(HBĐT) - Địa bàn trải rộng, chia cắt bởi lòng hồ, có đông đồng bào dân tộc sinh sống, tỷ lệ đói nghèo còn cao, đó là những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp GD&ĐT của huyện vùng cao Đà Bắc.
Phó phòng GD – ĐT huyện Đà Bắc Nguyễn Hữu An cho biết: huyện có 20 xã, thị trấn thì có 10 xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn, cùng với đó là có 30/65 trường thuộc vào trường đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, đối với Đà Bắc, các trường cũng gặp nhiều khó khăn do điều kiện kinh tế ở đây còn hạn chế, trình độ dân trí thấp. Tính đến thời điểm này, thu nhập bình quân trong toàn huyện đạt hơn 10 triệu đồng/ người/ năm và là một trong những huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất trong tỉnh.
Trước những khó khăn, thách thức đó, cấp ủy Đảng, chính quyền đã có nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng GD&ĐT nói chung, giáo dục vùng cao, vùng khó khăn, dân tộc thiểu số nói riêng. Cũng theo đồng chí Phó phòng GD&ĐT, trước mắt, cần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung trong toàn huyện và ngành đã xác định xây dựng đội ngũ giáo viên đạt chuẩn, trên chuẩn là một trong những khâu đột phá để thực hiện mục tiêu này. Vì vậy, từ nhiều năm nay, huyện, ngành đã chú tâm đào tạo, bố trí lại công việc phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ điều chuyển, kịp thời bổ sung lực lượng giáo viên trẻ có đủ năng lực đáp ứng yêu giảng dạy trong nhà trường. Với các giải pháp nêu trên, hiện tại, trình độ đào tạo của giáo viên trong huyện đã được hoàn thiện và nâng cao. Đối với giáo dục mầm non, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trở lên 96,8%, giáo dục tiểu học, THCS 100% đạt chuẩn và trên chuẩn. Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các thầy, cô giáo yên tâm công tác, hàng năm, ngành giáo dục huyện luôn quan tâm thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách cho giáo viên, đặc biệt là những giáo viên thuộc vùng khó khăn, lòng hồ. Hiện nay, nhiều trường cũng đã quan tâm xây dựng nhà ở cho giáo viên, công đoàn ngành giáo dục cũng đã quyên góp ủng hộ, giúp đỡ các giáo viên có hoàn cảnh khó khăn, hỗ trợ xây nhà mái ấm công đoàn.
Bên cạnh đó, huyện đã huy động mọi nguồn lực cho xây dựng cơ sở vật chất trường học, đặc biệt tranh thủ sự đầu tư của Nhà nước thông qua các chương trình, dự án, ngân sách địa phương và các nguồn tài trợ khác. Hiện nay, toàn huyện có 689 phòng học, trong đó phòng kiên cố 513 phòng, chiếm tỷ lệ 74,5%, tăng 3,5 so với năm học trước. Bán kiên cố có 98 phòng, chiếm tỷ lệ 14,2%, giảm 3,2%, phòng học tạm 78 phòng, chiếm tỷ lệ 9,6% giảm 5,3% so với năm học trước. Riêng năm học 2011 - 2012, thực hiện đề án kiên cố hóa trường lớp học, toàn huyện đã triển khai đầu tư xây dựng 9 công trình (6 phòng học và 21 phòng ở cho giáo viên) với tổng số vốn đầu tư 2,3 tỷ đồng. Từ nguồn vốn ngân sách sự nghiệp giáo dục huyện đã đầu tư 10 công trình.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, chú trọng phát triển mạng lưới trường lớp và tăng cường cơ sở vất chất, thiết bị giáo dục, huyện Đà Bắc còn đặc biệt quan tâm đến xã hội hóa giáo dục, tuyên truyền, vận động, tạo mọi điều kiện tốt nhất để con em được đến trường. Từ đặc điểm của học sinh vùng dân tộc, vùng khó khăn vào mỗi năm học, các trường đã nắm bắt đối tượng đảm bảo dạy những gì cơ bản nhất và giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh. Ngoài việc giảng dạy các bộ môn theo quy định, huyện vẫn duy trì chương trình tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi trước khi vào lớp 1, dạy tiếng việt thông qua các cuộc thi văn nghệ, kể chuyện, các giờ sinh hoạt ngoại khóa. Mô hình bán trú, bán trú dân nuôi đang là hướng đi mà huyện quan tâm nhằm vận động con em ra lớp. Hiện, trên địa bàn huyện có 6 xã có mô hình bán trú dân nuôi và 7 trường TH có bán trú cho học sinh. Với mô hình này đã góp phần nâng cao chất lượng công tác phổ cập giáo dục trên địa bàn huyện do hạn chế được tình trạng học sinh bỏ học. Ngoài ra, chất lượng học tập của các em cũng cao hơn do các em không phải vượt qua những đoạn đường dài để đến lớp. Trong năm, huyện đã vận động quyên góp 300 bộ quần áo mùa đông, 200 bộ quần áo mùa hè, 200 cặp sách và bộ đồ dùng học tập khác cho học sinh các trường vùng 135.
Với những nỗ lực trên, trong những năm qua, công tác giáo dục, đặc biệt là giáo dục vùng cao, giáo dục dân tộc có bước chuyển biến tích cực. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ đúng độ tuổi, THCS tiếp tục được duy trì và củng cố. Chất lượng, số lượng giáo viên giỏi, học sinh giỏi các cấp đạt kết quả khá, cảnh quan ở hầu hết các trường vùng cao đã được kiên cố hóa, giao tiếp của trẻ đã được phát triển đáng kể. Tình trạng học sinh bỏ học, thất học đã giảm qua từng năm.
Phương Linh
“Ồ ạt nâng cấp trường từ cao đẳng, thậm chí trung cấp lên đại học, thành lập trường mới một cách vội vàng, bà An cho là đi đôi với việc “hạ cấp” chất lượng” - đại biểu Bùi Thị An “quy tội” việc chất lượng giáo dục đại học giảm mạnh thời gian qua.
Nhiều người cho rằng việc nhiều cử nhân học làm thợ là hệ quả của việc đào tạo không đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Việc này đang gây lãng phí lớn cho xã hội.
Ở phiên thảo luận tổ ngày 4-11, các đại biểu kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII đã thảo luận về dự án Luật giáo dục đại học. Nhiều đại biểu cho rằng dự luật này chưa làm rõ được quy hoạch, quy mô của nền giáo dục nước nhà.
(HBĐT) - Ngày 4/11, Sở GD&ĐT đã tổ chức hội nghị triển khai thực hiện Thông tư số 01/2011/TT-BNV của Bộ Nội vụ hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính; Thông tư số 09/2011/TT-BNV quy định về thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu hình thành phổ biến trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Tham dự hội nghị có trên 300 cán bộ, nhân viên thuộc phòng GD&ĐT 11 huyện, thành phố và 63 đơn vị trực thuộc.
(HBĐT) - Ngày 4/10, Trường TH Kinh tế - Kỹ thuật đã tổ chức lễ khai giảng năm học mới 2011 – 2012. Đồng chí Bùi Văn Cửu, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành, các trường CĐ, Trung học chuyên nghiệp, THPT đã đến dự.
Đó là khẳng định của lãnh đạo Bộ GD-ĐT trước sự băn khoăn liên quan đến chế độ phụ cấp thâm niên (PCTN) của nhiều nhà giáo.