(HBĐT) - Với người Mường Hòa Bình, chiêng giữ vị trí đặc biệt linh thiêng. Chiêng có mặt mọi lúc, mọi nơi, trong lễ nghi, tín ngưỡng và suốt cuộc đời của mỗi người. Hội nào thiếu tiếng chiêng, hội đó không to. Tết nào vắng tiếng chiêng, Tết đấy không sung túc. Ngày vui đôi lứa mà không có cồng chiêng, ngày cưới mất vui. Người về với tổ tiên, ông bà có chiêng đưa tiễn... 
Bài 1 - Thăng trầm chiêng Mường



Trong cuộc sống hôm nay, cộng đồng người Mường Hòa Bình - chủ nhân của chiêng Mường đang tiếp tục bảo vệ, kế thừa, phát triển, để tiếng chiêng Mường vang xa, lan tỏa, trở thành một trong những biểu tượng văn hóa phi vật thể đặc sắc của nền Văn hóa Hòa Bình.
     
Chiêng không chỉ giản đơn là một loại nhạc cụ dân tộc, mà ẩn chứa sau mỗi chiếc chiêng, bộ chiêng, bài chiêng còn là một câu chuyện văn hóa, tâm linh chan chứa niềm tự hào, tình yêu đối với bản sắc văn hóa dân tộc của mỗi người con xứ Mường. Cũng như những nốt trầm bổng của một bài chiêng, chiêng Mường Hòa Bình đã có những giai đoạn thịnh - suy, có lúc tưởng chừng mai một, biến mất trước khi được trân trọng, bảo tồn, phát triển.


Nghệ nhân Nguyễn Thị Hình, xã Lâm Sơn (Lương Sơn) bên dàn chiêng quý.

Đau đáu nỗi niềm bảo tồn chiêng của những người con xứ Mường

Giai đoạn những năm 80, 90 của thế kỷ trước, do đời sống khó khăn, một số lượng chiêng cổ đã bị người dân bán mất. Có lẽ đây là nốt trầm buồn nhất trong bản nhạc "chiêng Mường”. Ngậm ngùi nhớ lại ký ức buồn này, nghệ nhân Nguyễn Thị Hình, xóm Rổng Tằm, xã Lâm Sơn (Lương Sơn) trăn trở: Là người con của xứ Mường, từ nhỏ tôi đã được xem, nghe biểu diễn chiêng Mường. Càng nghe càng thấy hay, thấy say. 17 tuổi, tôi  được người lớn cho tham gia đội chiêng. Cảm giác được đứng trong dàn chiêng, góp một nốt chiêng vào cả bài chiêng trầm hùng của dân tộc mình khiến tôi rất xúc động, tự hào. Nhưng tôi cũng rất buồn, trăn trở là giai đoạn này kinh tế đất nước, địa phương còn khó khăn, chiêng Mường chưa được coi trọng. Trong nhiều cuộc họp, hội nghị, hội thảo, tôi đã đề xuất ý kiến với ngành chức năng, chính quyền địa phương cần quan tâm bảo tồn, khôi phục chiêng Mường. Với tình yêu chiêng Mường, bản thân tôi đã lưu giữ được 2 chiếc chiêng cổ, sau này mua thêm được 4 chiếc chiêng nữa để đủ bộ chiêng 6 chiếc theo truyền thống của vùng Mường Lương Sơn.

Cùng chung nỗi niềm đau đáu với nghệ nhân Nguyễn Thị Hình, nghệ nhân Nguyễn Văn Thực, tổ 7, phường Thái Bình (TP Hòa Bình) ngậm ngùi: "Những năm 90, nhiều gia đình túng đói đã bán chiêng đi, văn hóa chiêng Mường mai một. Vì tình yêu chiêng Mường, tôi đã thắt lưng buộc bụng, giành dụm tiền, quyết tâm sưu tầm những chiếc chiêng quý để mang về lưu giữ. Tôi rất sợ mất đi những nét đặc sắc của văn hóa Mường. Tôi muốn gìn giữ lại cho con cháu sau này, hết đời tôi đến đời các con sẽ vẫn còn”. Và hơn 20 năm qua, bước chân ông Thực đã rong ruổi khắp 4 xứ Mường để sưu tầm. Tiền làm ra, ông đều dành cho những cuộc băng rừng, vượt núi tìm mua chiêng. Đến nay, ông Thực đã có gần 30 chiếc chiêng, trong đó có chiếc đúc nguyên. Sau khi đúc xong là âm thanh chuẩn luôn. Toàn tỉnh Hòa Bình hiện có 2 chiếc quý nhất. Một chiếc là chiêng cái. Còn chiêng ông Thực có được là chiêng liền. Chỉ cần xoa vào vú chiêng là âm thanh ngân vang.

Cũng là người yêu chiêng, trân trọng chiêng và khắc khoải lo sợ chiêng mai một, nghệ nhân Bùi Tiến Xô, thôn 168, xã Vĩnh Tiến (Kim Bôi) đã sưu tầm, sở hữu 55 chiếc chiêng; trong đó có 18 chiêng cổ, 28 chiêng kim, còn lại là chiêng thâu. Đau đáu nỗi niềm với chiêng Mường thì không thể không kể đến ông Bùi Thanh Bình, phường Thái Bình (TP Hòa Bình) đang sở hữu tới 5.000 cổ vật văn hóa Mường, trong đó có hơn 100 chiếc chiêng quý…

Xót xa, trăn trở trước thực tế chiêng Mường giảm dần về số lượng, văn hóa chiêng Mường mai một, những nghệ nhân xứ Mường yêu chiêng, say chiêng đã tích cực sưu tầm, lưu giữ chiêng cổ. Đặc biệt kiên trì không biết mỏi mệt trong việc truyền dạy, truyền lửa để từ bếp tro tưởng đã nguội lạnh thắp lên ngọn lửa đầy sức sống cho chiêng Mường, góp phần trong việc lưu giữ, phục hồi lại nền văn hóa chiêng Mường hôm nay.

Phục dựng chiêng Mường 

Ngày 16/7/1998, Hội nghị lần thứ năm BCH T.Ư (khóa VIII)  đã ban hành Nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong 10 nhiệm vụ trọng tâm thì có một nhiệm vụ quan trọng là "bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa”. Đây được xem như một bước ngoặt, một dấu mốc quan trọng đối với sự "sống lại” của chiêng Mường. 

Để đưa Nghị quyết T.Ư 5 (khóa VIII) đi vào cuộc sống, BCH Đảng bộ tỉnh đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết T.Ư 5 về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ sự vào cuộc mạnh mẽ của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh dần được phục hồi. Riêng đối với dân tộc Mường, cùng với sự xuất hiện trở lại ngày càng rầm rộ trang phục váy áo phụ nữ Mường, xây dựng nhà sàn thay vì xây nhà hiện đại, ẩm thực truyền thống của người Mường được ưa chuộng, thì chiêng Mường cũng đã có sự hồi sinh mạnh mẽ. Hiện nay, ở các vùng Mường lớn của tỉnh như Mường Bi (Tân Lạc), Mường Vang (Lạc Sơn), Mường Thàng (Cao Phong), Mường Động (Kim Bôi), chỉ cần huy động một xóm cũng đủ đội cồng chiêng 20 - 30 người. 

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Bùi Huy Vọng, xã Hương Nhượng (Lạc Sơn) nhận định: Dân tộc Mường trên địa bàn tỉnh hiện có gần 40 lễ hội lớn, thì có tới 90% lễ hội sử dụng âm nhạc chiêng. Gần đây, nghệ thuật chiêng Mường còn được đưa vào các sự kiện chính trị, văn hóa lớn của tỉnh một cách hoành tráng và độc đáo, để lại ấn tượng sâu sắc đối với người dân, du khách trong, ngoài nước. Chiêng được sử dụng phổ biến, ngày càng nhiều trong các lễ hội, đón bằng công nhận, ngày hội xuân… Nhiều gia đình có điều kiện đã mua từ 1 - 2 bộ chiêng về để sử dụng, treo ở những vị trí trang trọng trong nhà như một minh chứng cho tình yêu, niềm tự hào đối với bản sắc văn hóa dân tộc. Những chiếc chiêng cổ đã thực sự trở thành vật quý và được trao truyền qua các thế hệ. 

Theo thống kê chưa đầy đủ, toàn tỉnh có trên 12.000 chiếc chiêng, tập trung ở một số huyện như: Tân Lạc, Lạc Sơn, Cao Phong, Kim Bôi. Trong đó có nhiều bộ cồng chiêng cổ, quý giá. Đồng chí Bùi Tiến Dũng, Trưởng phòng VH - TT huyện Cao Phong cho biết: Tại huyện Cao Phong, xã nào cũng có đội trình tấu chiêng Mường. Sau những giờ lao động vất vả, mọi người lại hội tụ về nhà văn hóa xóm, xã để tập luyện những bài chiêng truyền thống. Người già dạy người trẻ, bố mẹ dạy lại con. Cứ vậy, thế hệ trước truyền cho thế hệ sau, chiêng tồn tại tự nhiên trong mạch nguồn cuộc sống mỗi gia đình, dòng họ, bản làng, xứ Mường. Huyện có nhiều cuộc trình diễn chiêng Mường tại các lễ hội lên tới hàng trăm tay chiêng. Toàn huyện có khoảng 3.000 chiếc chiêng. Hợp Phong, Dũng Phong là 2 xã có số lượng chiêng nhiều nhất. Số lượng tay chiêng đánh được các bài chiêng cổ ngày càng nhiều.

Dòng chảy lịch sử hàng trăm năm qua đã cho thấy chiêng Mường có lúc thăng, lúc trầm, lúc xót xa, lo sợ trước nguy cơ biến mất. Nhưng điều đáng mừng là sau những nốt trầm, giờ đây, chiêng Mường đang ở nốt bổng, tự hào gióng lên những âm thanh trầm hùng vang vọng khắp 4 Mường. Chiêng Mường đã sống lại, khẳng định vị thế tâm linh, văn hóa không thể thay thế trong văn hóa dân tộc Mường. Năm 2016, chiêng Mường đã có mốc son đặc biệt với việc được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.

(Còn nữa)

 Nhóm P.V Phòng VH-XH

Các tin khác


Dấu ấn kinh tế trang trại

(HBĐT) - Những năm gần đây, số lượng, chất lượng trang trại không ngừng tăng, thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đưa sản xuất nông nghiệp từ sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, gắn với thị trường tiêu thụ. Các trang trại khai thác được tiềm năng, thế mạnh về đất đai, lao động; áp dụng tiến bộ KH-KT, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm. Nhờ vậy, đời sống của người nông dân không ngừng cải thiện, xuất hiện nhiều tỷ phú trang trại.
Bài 1 - Những tỷ phú trang trại

Mường Bi vượt khó vươn tới tương lai

(HBĐT) - Mường Bi - Tân Lạc, 1 trong 4 vùng Mường lớn của tỉnh đang nỗ lực vượt khó vươn lên hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. Diện mạo nông thôn, thị trấn, đô thị ngày càng khang trang, chất lượng cuộc sống người dân được nâng cao. Từ vùng thuận lợi dọc quốc lộ 6, vùng thượng và cả các xã vùng cao mang những sắc thái ấm no, hạnh phúc.

Động lực thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn

(HBĐT) - Là phong trào thi đua yêu nước của nông dân, các cấp Hội Nông dân (HND) có nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, phát triển phong trào thi đua SX-KD giỏi trong tình hình mới; quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, thực hiện bằng được lời dạy của Người: "Làm cho người nghèo thì đủ ăn; người đủ ăn thì khá, giàu; người khá, giàu thì giàu thêm".
Bài 2 - Nâng cao hiệu quả phong trào thi đua sản xuất - kinh doanh giỏi

Động lực thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn

(HBĐT) - Hiện, với tổng số cán bộ, hội viên nông dân trên 130.680 người, chiếm trên 80% hộ nông nghiệp toàn tỉnh, giai cấp nông dân ngày càng khẳng định vai trò chủ thể trong phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM văn minh, hiện đại. Việc đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, trọng tâm là phong trào nông dân sản xuất - kinh doanh (SX-KD) giỏi, đoàn kết giúp nhau giảm nghèo và làm giàu chính đáng luôn được các cấp Hội Nông dân (HND) trong tỉnh quan tâm, đặt thành mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm hàng năm để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
Bài 1 - Tạo động lực cho nông dân làm giàu

Chuyện về một ngôi làng giữa rừng Biều

(HBĐT) - Làng rừng bản Sưng, xã Cao Sơn hiện diện ở lưng chừng núi Biều, là của quý còn sót lại không chỉ của huyện Đà Bắc mà là của cả quốc gia, nhân loại…

Hiện thực hóa khát vọng thoát ngưỡng "bình bình"

(HBĐT) - Muốn phát triển KT-XH một cách bền vững, nhất thiết phải dựa vào nguồn lực nội tại, đồng thời thu hút nguồn lực từ bên ngoài để tạo đột phá. Xác định rõ điều này, những năm gần đây, tỉnh đã tập trung gỡ "nút thắt” về thủ tục hành chính (TTHC) để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
Bài 2 - Tập trung cải cách hành chính để thu hút đầu tư

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục