Chiều 17/7, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành chủ trì họp báo, thông tin và giải đáp các câu hỏi của các cơ quan báo chí liên quan đến những vấn đề đang được dư luận đặc biệt quan tâm hiện nay.
Một bến cát trái phép hoạt động rầm rộ dưới chân cầu đường sắt
Yên Xuân, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. (Ảnh: Tá Chuyên/TTXVN)
Đó là tình hình nhập
khẩu phế liệu, các giải pháp phòng ngừa nguy cơ "Việt Nam biến thành bãi
chứa rác thải" của các nước; một số chính sách quan trọng đối với công tác
quản lý tài nguyên cát, sỏi lòng sông.
Bên cạnh đó, Bộ cũng thông báo những nội dung trọng tâm Luật Đo đạc bản đồ,
công tác cải cách thủ tục hành chính…
Sẽ giảm dần việc nhập khẩu phế liệu
Theo ông Hoàng Văn Thức, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, tổng khối
lượng nhập khẩu phế thải năm 2017 tăng gấp 2 lần so với khối lượng phế liệu
nhập khẩu năm 2016.
Trong đó khối lượng sắt, thép, nhựa, giấy và xỉ hạt nhỏ là những loại phế liệu
có khối lượng tăng gấp 2-3 lần tổng khối lượng nhập khẩu năm 2016. Riêng 5
tháng đầu năm 2018, khối lượng nhựa phế liệu nhập khẩu tăng đột biến gần gấp 2
lần so với cả năm 2017.
Lượng phế liệu nhập khẩu đang tồn đọng chủ yếu tại các cảng Thành phố Hồ Chí
Minh, một số cảng biển khác tại Hải Phòng, cảng Cái Mép…
Riêng tại Tân cảng Sài Gòn, theo số liệu của Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh
và Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, tính đến ngày 26/6, số lượng phế liệu nhập
khẩu tồn đọng từ 30 đến trên 90 ngày tại tất cả các cảng do Tổng công ty quản
lý lên đến 4.480 cotainer, riêng cảng Cát Lái là 3.464 cotainer; các cảng tại
Hải Phòng 1.244 cotainer.
Ước tính trong đó có khoảng 20% là phế liệu giấy và 80% là phế liệu nhựa và các
loại phế liệu khác.
Đề cập về những giải pháp xử lý các container phế thải đang gây ùn ứ nghiêm
trọng tại các cảng biển, ông Hoàng Văn Thức cho biết Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã đề nghị Bộ Tài chính chỉ đạo cơ quan Hải quan các cửa khẩu phối hợp
chặt chẽ với Tổng cục Môi trường, tiến hành rà soát lại các doanh nghiệp có
hàng hóa nhập khẩu là phế liệu đang lưu giữ trên cảng biển thuộc địa bàn quản
lý, giải quyết và xử lý theo quy định pháp luật.
Đồng thời chủ trì, xử lý hàng phế liệu nhập khẩu tồn đọng tại các cảng biển
hiện nay; khẩn trương phân loại để xử lý các container phế liệu tồn đọng quá 90
ngày theo quy định tại Thông tư 203 của Bộ Tài chính.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đề nghị Bộ Giao thông vận tải có văn bản thông
báo cho các hãng vận tải kiểm tra Giấy xác nhận của chủ lô hàng phế liệu, trước
khi đưa hàng lên tàu tại các cảng xuất khẩu; chỉ đạo các doanh nghiệp kinh
doanh cảng biển kiểm tra Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong
nhập khẩu phế liệu trước khi cho hàng hóa dỡ xuống cảng.
Riêng Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ rà soát và rút ngắn thời gian cấp Giấy xác
nhận đối với các cơ sở sản xuất đã đáp ứng các điều kiện bảo vệ môi trường.
Về giải pháp lâu dài quản lý chặt chẽ phế liệu nhập khẩu, Bộ Tài nguyên và Môi
trường và các Bộ, ngành chức năng đang khẩn trương rà soát, hoàn thiện hệ thống
văn bản pháp luật về quản lý phế liệu nhập khẩu, theo hướng đồng bộ giữa yêu
cầu bảo vệ môi trường theo Luật Bảo vệ môi trường, Luật Thương mại và Luật Hàng
hải.
Đặc biệt là tạo cơ chế quản lý, kiểm soát và phòng ngừa từ xa, ngoài biên giới
đối với hoạt động thương mại nhập khẩu phế liệu.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho rà soát và sửa
đổi danh mục phế liệu được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo nội
dung Quyết định 73/2014 ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ, theo hướng
loại bỏ các phế liệu có tiềm năng gây ô nhiễm môi trường, hoặc các phế liệu
hiện nay trong nước đã chủ động được nguồn cung.
"Nhất là nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ sản xuất hiện đại, thân
thiện với môi trường. Thực hiện giảm dần việc nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài,
đồng thời tăng cường tái sử dụng, tái chế phế liệu phát sinh trong nước,” Thứ
trưởng Lê Công Thành khẳng định.
Về việc "lập lại trật tự kỷ cương” của Nhà nước đối với các hoạt động liên quan
đến cát, sỏi lòng sông (bao gồm cả ở lòng hồ, cửa sông, cửa biển), Chính phủ đã
giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan
xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định quản lý cát, sỏi lòng sông.
Đây là lần đầu tiên, loại khoảng sản này được điều chỉnh bởi các quy định của
pháp luật gồm 5 chính sách cụ thể.
Theo đó, Nhà nước thống nhất quản lý tài nguyên cát, sỏi lòng sông theo quy
định của Luật Khoáng sản và Luật Tài nguyên nước.
Nhà nước quy hoạch sử dụng tài nguyên cát, sỏi theo lưu vực sông, đồng thời
phân cấp gắn với trách nhiệm quản lý theo địa giới hành chính của các cấp chính
quyền địa phương.
Gắn trách nhiệm Ủy ban Nhân dân các tỉnh, các Bộ, ngành liên quan từ khi lập
quy hoạch; cấp phép thăm dò, khai thác cho đến tập kết, mua bán, vận chuyển
cát, sỏi lòng sông.
Nhà nước thực hiện đấu giá quyền khai thác khoáng sản trong cấp phép thăm dò,
khai thác cát, sỏi lòng sông; đấu thấu thực hiện dự án nạo vét, khơi thông
luồng lạch; đấu giá khối lượng thu hồi (nếu có) từ các dự án nạo vét, khơi
thông luồng lạnh.
Mặt khác khuyến khích sử dụng các khoáng sản có thể sản xuất cát nhân tạo để
thay thế cát tự nhiên; nghiêm cấm việc sử dụng cát, sỏi đủ chất lượng để xây
dựng cho mục đích san lấp, cải tạo mặt bằng.
Những bước tiến về cải cách hành chính
Về thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm
2018 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thứ trưởng Lê Công Thành cho biết, quán
triệt tinh thần "Kỷ cương, Liêm chính, Hành động, Sáng tạo, Hiệu quả,” Bộ đã
theo sát tình hình thực tế, chủ động chỉ đạo triển khai các giải pháp phù hợp
để tăng cường bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên, chủ động phòng chống thiên
tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Nhờ đó, trong 6 tháng đầu năm Bộ đã trình Quốc hội thông qua Luật Đo đạc và bản
đồ; triển khai xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều về quy hoạch của Luật
Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên nước, Luật Đa
dạng sinh học, Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo; trình Chính phủ 4
Nghị định; 1 đề xuất xây dựng Nghị định…
Đặc biệt, Bộ đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bãi bỏ một số điều
của các Nghị định liên quan đến đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực
tài nguyên và môi trường.
Trong đó đề xuất bãi bỏ và đơn giản hóa 99/163 điều kiện đầu tư kinh doanh,
chiếm khoảng 60% (bãi bỏ 69 điều kiện, đơn giản hóa 30 điều kiện, bãi bỏ 10 thủ
tục hành chính).
Công bố phương án cắt giảm 38/74 hàng hóa, sản phẩm phải kiểm tra chuyên ngành
và bãi bỏ, đơn giản hóa 13/13 thủ tục hành chính liên quan đến kiểm tra chuyên
ngành.
Thực hiện chỉ đạo, điều hành trên môi trường mạng, từng bước giảm giấy tờ trong
điều hành, hiện đại hóa nền hành chính. Triển khai cung cấp dịch vụ trực tuyến
cho 82 thủ tục hành chính, trong đó có 67 dịch vụ công mức độ 3, có 15 dịch vụ
công trực tuyến cấp độ 4.
Kết quả năm 2017, chỉ số cải cách hành chính của Bộ Tài nguyên và Môi trường
xếp hạng 10/19 các Bộ, cơ quan ngang Bộ, tăng 6 bậc với năm 2016; năm 2017, xếp
hạng về ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ điện tử đứng thứ 5
trong các Bộ, ngành./.
TheoVietNamPlus
(HBĐT) - Sau 8 năm thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM), xã Mường Chiềng (Đà Bắc) đã đạt được 13/19 tiêu chí. Xã đang phấn đấu trở thành xã vùng cao đầu tiên của huyện hoàn thành các tiêu chí về NTM.
Trước tình trạng phân lô, bán nền, xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp, lâm nghiệp diễn ra rất phức tạp, UBND tỉnh Đồng Nai đã thành lập ba đoàn thanh tra để kiểm tra, chấn chỉnh tình hình và làm rõ trách nhiệm của các cá nhân, đơn vị liên quan.
(HBĐT) - Ngày 13/7,
Liên minh HTX tỉnh tổ chức hội nghị ban chấp hành Liên minh HTX tỉnh khoá V kỳ
họp lần thứ 5 đánh giá hoạt động 6 tháng đầu năm và đề ra phương hướng nhiệm vụ
6 tháng cuối năm.
(HBĐT) - Ngày 13/7, Ban
đại diện HĐQT NHCSXH TPHB tổ chức Hội nghị đánh giá tình hình hoạt động quý II
và triển khai nhiệm vụ quý III năm 2018.
(HBĐT) -Xác định tầm quan trọng của làng nghề truyền thống trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, huyện Lạc Sơn đang từng bước khôi phục và thúc đẩy làng nghề truyền thống phát triển, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 13/6/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phát triển nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống.