Chưa biết cơ chế hai tỷ giá, hai lãi suất còn tồn tại trong thời gian bao lâu, song rõ ràng nó đang làm méo mó thị trường vốn và cả bảng cân đối tài chính ở tầm doanh nghiệp cũng như quốc gia.
Nguồn cung cho nhu cầu tăng vốn chủ yếu là vay ngân hàng. Điều này đang là một trong những nguyên nhân đẩy lãi suất tiền đồng tăng cao trên cả thị trường một (huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế) và thị trường hai (liên ngân hàng). Bên cạnh đó, càng về cuối năm, hiện tượng phòng thủ thanh khoản càng lan rộng trong giới ngân hàng. Đầu tiên là các ngân hàng dồi dào tiền đồng do có nguồn huy động tốt rút bớt lượng vốn cung ứng trên thị trường liên ngân hàng.
Thí dụ trước đây ngân hàng A có thể cho vay liên ngân hàng 10 tỉ đồng/ngày, nay đề phòng các doanh nghiệp tăng cường rút tiền chi trả lương, thưởng hoặc vay thêm vốn để thanh toán cuối năm, họ giảm lượng vốn cho vay xuống 8 tỉ đồng/ngày. Trong khi đó các ngân hàng nhỏ luôn trong tình trạng “đói” thanh khoản hay thanh khoản “lưng lửng bụng” thì thay vì vay 10 tỉ nay nâng lên 12 tỉ đồng/ngày. Sự chênh lệch này đã khiến cho lãi suất tiền đồng không thể hạ được.
Ngoài ra việc NHNN giám sát chặt chẽ và sẽ thanh tra, xử lý một số ngân hàng gửi tiền lãi suất cao ở những tổ chức tín dụng khác thông qua công ty con làm cho hoạt động gửi tiền - vay tiền trong nội khối ngân hàng co hẹp. Lãi suất tiết kiệm 14%/năm đã trở nên phổ biến, công khai, còn lãi suất tiền gửi thỏa thuận hay cộng thêm các hình thức khuyến mại có nơi đã chạm mức 16%/năm. Cơ chế trong - ngoài, vốn chỉ tồn tại với tỷ giá, nay lan sang cả lãi suất và doanh nghiệp, người dân, ngân hàng cùng phải chấp nhận nó.
Chưa biết cơ chế hai tỷ giá, hai lãi suất còn tồn tại trong thời gian bao lâu, song rõ ràng nó đang làm méo mó thị trường vốn và cả bảng cân đối tài chính ở tầm doanh nghiệp cũng như quốc gia. Các ngân hàng phải “giấu giếm” thu các loại phí đi kèm tỷ giá, lãi suất. Doanh nghiệp hạch toán lén lút và một tiền lệ xấu đang hình thành trên sổ sách kế toán của họ. Thậm chí những nhà xuất khẩu bán ngoại tệ cho ngân hàng theo giá 19.500 đồng/USD bị cho là “có vấn đề”.
Với những công ty nguồn thu ngoại tệ chỉ là 1 -2 triệu USD, việc hạch toán hai tỷ giá đã khó khăn, nhưng khó khăn đó chưa thấm vào đâu so với những đơn vị mà mỗi chuyến hàng xuất khẩu mang về hàng chục triệu USD. Sự chênh lệch tỷ giá trong - ngoài làm lợi nhuận của họ có thể tăng giảm hàng chục tỉ đồng tùy theo tỷ giá hạch toán. Vì thế sẽ có những công ty lẽ ra lãi mà hóa lỗ hoặc ngược lại.
Hơn nữa một khi lãi suất và cơ chế có chân trong-chân ngoài, tiêu cực dễ nảy sinh trong quá trình giao dịch giữa các chủ thể. Những nhà đầu tư nước ngoài không thể hạch toán sổ sách với hai tỷ giá, đành phải ngồi chờ tỷ giá ổn định mới dám chuyển ngoại tệ ra tiền đồng để giải ngân cho các dự án
Tự do hóa lãi suất và áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá thả nổi có điều tiết (chứ không phải điều tiết hoàn toàn) có lẽ là một quá trình gây nhiều đớn đau. Tuy nhiên cùng với sự đau đớn ấy lãi suất, tỷ giá sẽ được công khai, minh bạch. Thị trường tài chính Việt Nam từ trước đến nay vốn đã bị nhận xét là thiếu minh bạch thông tin, nay cơ chế hai lãi suất, hai tỷ giá chẳng khác nào ươm thêm mầm cho sự thiếu minh bạch đó phát triển ở mức độ trầm trọng hơn. Các nhà xuất nhập khẩu nhìn nhau, hỏi tỷ giá giao dịch thực là tỷ giá nào. Ai cũng biết sau khi cộng thêm phí, tỷ giá giao dịch thực ngang bằng với tỷ giá thị trường tự do. Mà tỷ giá thị trường tự do có 5 -7 bậc. Vậy tính minh bạch, công khai của tỷ giá, lãi suất nằm ở đâu?
Các doanh nghiệp cho biết họ hy vọng cơ chế tỷ giá, lãi suất hiện tại sẽ nhanh chóng thay đổi vào đầu năm 2011. Nhưng cơ quan quản lý vẫn chưa có động thái nào cho thấy thời điểm đó sẽ diễn ra. Đây mới chính là điều đáng quan tâm lúc này. Bởi sự không rõ ràng của chính sách có thể đẩy một số hoạt động kinh tế vào chỗ ngưng trệ. Chẳng hạn doanh nghiệp tiếp tục găm giữ ngoại tệ, ngân hàng hạn chế cho vay. Ảnh hưởng của kênh dẫn vốn ngân hàng eo hẹp đến nền kinh tế có thể chưa nhìn thấy ngay tức thì do độ trễ của nó, nhưng hậu quả có thể sẽ hiện rõ trong quí một năm sau.
Theo DanTri
(HBĐT)- Đó là tinh thần quán triệt trong Công văn số 1035/SNN-CCTY ngày 4/11/2010 của Sở NN&PTNT gửi UBND các huyện, thành phố về việc chủ động triển khai các biện pháp phòng- chống đói, rét cho trâu, bò vụ đông xuân 2010- 2011. Đến thời điểm này, nhiều biện pháp đã được triển khai và bước đầu phát huy hiệu quả, giúp bà con nông dân chủ động hơn khi sắp tới phải đối mặt với các đợt rét đậm, rét hại đã được dự báo trước.
Tổng cục Thuỷ sản (Bộ NN&PTNT) cho rằng, thời gian gần đây, cá tra Việt Nam đã bị "đánh hội đồng" trên thị trường châu Âu. Và gần đây nhất, con cá tra còn bị EU đưa vào mặt hàng có nguy cơ bị kiện chống bán phá giá… Tuy nhiên, cũng có nhiều tập đoàn bán lẻ thủy sản lớn tại Anh như Findus Group và Birds Eye Group lại lên tiếng bảo vệ sản phẩm cá tra cũng như môi trường nuôi cá tra.
Lãi suất tiết kiệm cán mức 18%/năm rồi lập tức giảm xuống còn còn 14%-14,5%/năm chỉ trong một ngày
Một thực tế đầy mâu thuẫn diễn ra vào dịp cận tết mỗi năm là: Trong khi rau nội ùn ứ, bán với giá rẻ mạt thì rau ngoại từ Trung Quốc tung hoành tại các chợ đầu mối.
Ngày 7/12, giá dầu thế giới đã quay đầu đi xuống sau khi có lúc vọt lên mức cao kỷ lục mới trong hơn 2 năm qua, do giới đầu tư tiến hành bán chốt lời sau 4 phiên tăng giá liên tiếp.
(HBĐT) - Đợt không khí lạnh tràn về cùng cơn mưa lất phất không đủ tưới mát cho đồng ruộng xã Văn Nghĩa (Lạc Sơn). Nông dân xóm Tre, xóm ấm, Đổn, Đa... đổ ra đồng dồn sức chống hạn cho cây màu vụ đông. Hàng chục máy bơm dã chiến đang vận hành lấy nước từ đập tưới về đồng. Vợ chồng lão nông Quách Văn Nô ở xóm Tre cần mẫn mang nước từ con suối Cụt tưới mát cho ruộng bắp cải, su hào đang trong thời kỳ cần tập trung chăm sóc.