Đào nhân.
Một số chị em với những lý do khách quan, cũng có khi là chủ quan mà thiên chức làm mẹ đến với họ hơi muộn mằn, đôi khi lại có những khó khăn nhất định khiến cho một số chị em vì quá mong đợi dẫn đến sốt ruột, đôi khi trở nên nhẹ dạ, cả tin.
Nắm bắt được những tâm lý này, một số người hành nghề YHCT thiếu lương tâm vừa qua đã tạo ra những vụ mang thai “ảo”: có bầu mà không có thai nhi. Do vậy cũng cần cung cấp một số thông tin cần thiết về thuốc cổ truyền đối với việc sinh sản của các chị em để giúp bạn đọc có cái nhìn đúng đắn và thực chất của vấn đề dùng thuốc cổ truyền trong sinh sản.
Việc hiếm muộn do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Có khi là do người chồng của họ mắc một số chứng về sinh lý yếu như hoạt tinh, di tinh, liệt dương, lãnh tinh (lượng tinh trùng yếu và thiếu về số lượng), sự hoạt động của tinh trùng kém, tỷ lệ tinh trùng di động ít... Hoặc chị em kinh nguyệt không đều, có khi bế kinh 2 - 3 tháng (không có hành kinh), có người tới 6 tháng hoặc 1 năm, thậm chí đến 2 năm... Cũng có khi kinh nguyệt lại quá nhiều, tháng một lần song lượng quá nhiều, hoặc 1 tháng có hai, ba lần. Thậm chí rong kinh hàng tuần... Đôi khi đau bụng kinh dữ dội...
Thuốc cổ truyền có ý nghĩa điều hòa và bổ trợ chức năng sinh sản như thế nào?
Với nam giới
Trước hết, nếu nguyên nhân do phía nam, có thể tìm đến các vị thuốc mang tính chất "Bổ thận dương": Dâm dương hoắc, nhục thung dung, tắc kè, hải mã, hải sâm, lộc nhung, nhân sâm, hà thủ ô đỏ, ba kích, đỗ trọng, bạch cương tằm, ngài tằm đực... kết hợp với các loại thuốc khác. Tùy theo triệu chứng của từng trường hợp mà vận dụng các vị thuốc cho phù hợp. Có thể dùng dưới dạng thuốc hãm, thuốc sắc hoặc thuốc ngâm rượu. Về liều lượng và cách dùng cụ thể cần được tư vấn nơi các thầy thuốc YHCT.
Với nữ giới
Trong các trường hợp vô kinh hoặc bế kinh mức độ vừa phải, thường sử dụng các vị thuốc hoạt huyết: Ích mẫu, ngưu tất, hồng hoa, đào nhân, xuyên khung... Nếu thời gian bế kinh kéo dài, có thể dùng các vị thuốc phá huyết (tác dụng hoạt huyết mạnh hơn): nga truật, tô mộc, khương hoàng... Đương nhiên khi dùng các vị thuốc hành huyết nói trên thường dùng kèm các vị thuốc hành khí: hương phụ, trần bì, hậu phác... vì YHCT quan niệm: khí có hành thì huyết mới hành còn khí bị tắc thì huyết bị trệ. Nếu huyết bị trệ, tức huyết lưu thông kém thì sẽ gây đau đớn: "Bất thông tắc thống". Sau đây xin giới thiệu một số bài thuốc điều kinh theo từng chứng bệnh:
Khi bế kinh, đau bụng nhiều dẫn đến buồn phiền, mất ngủ, hồi hộp, lo sợ, đôi khi có cảm giác buồn nôn, nấc... có thể sử dụng cổ phương sau: ngũ linh chi, xuyên khung, đương quy, đào nhân mỗi vị 15g; hồng hoa, cam thảo mỗi vị 12g; mẫu đơn bì, xích thược, ô dược, hương phụ, chỉ xác mỗi thứ 10g; huyền hồ 6g. Uống dưới dạng thuốc sắc, ngày một thang, chia 3 lần. Uống tới khi thấy kinh nguyệt xuất hiện trở lại.
Ích mẫu. |
Trong trường hợp rối loạn kinh nguyệt, kinh không đều, có kinh đau bụng, có thể sử dụng phương sau: hương phụ, ngải cứu, ích mẫu, lá bạch đồng nữ, mỗi vị 10-12g (khô). Sắc uống, ngày 1 thang, có thể thêm đường để điều vị. Uống sau khi hết kinh độ 5-7 ngày. Uống liền 2-3 tuần lễ.
Trường hợp kinh nguyệt kéo dài, máu ra nhiều, có thể dùng lá ngải cứu, lá cỏ nhọ nồi sao đen. Sắc uống ngày 1 thang, uống liền 3-5 thang, hoặc dùng hòe hoa, trắc bách diệp, kinh giới tuệ, tất cả sao đen. Sắc uống ngày 1 thang, uống 3-5 thang.
Trong trường hợp lượng kinh nguyệt ít, máu thâm, cần dùng các vị thuốc bổ huyết: bạch thược, đương quy, thục địa... kèm theo các vị thuốc hoạt huyết như xuyên khung, hồng hoa... Ví dụ dùng cổ phương: bạch thược, xuyên khung, đương quy, thục địa, hồng hoa, mỗi vị 12g, ngày 1 thang sắc uống. Uống liền 3-4 tuần lễ.
Mặt khác, đối với các chị em có buồng trứng phát triển không tốt, nội tiết tố kém... dẫn đến các tình trạng rối loạn kinh nguyệt và suy yếu các hoạt động sinh lý: thờ ơ, lãnh cảm... cũng cần tìm đến một số các vị thuốc "Bổ thận dương": ba kích, hà thủ ô đỏ, tắc kè, cá ngựa... Tuy nhiên để kết quả đạt như ý muốn, cần có sự tư vấn đầy đủ của các thầy thuốc YHCT.
Như ta đã biết, trong thời đại hiện nay, với trình độ y học ở nước ta, việc khám và điều trị các bệnh vô sinh không còn là vấn đề quá khó khăn và thần bí như trước nữa. Vì vậy, người bệnh cũng cần trau dồi những hiểu biết cần thiết nhất để tránh những nguy cơ bị lừa đáng tiếc do các cảnh "thai ảo" gây ra, để rồi tiền lại mất và tật vẫn mang.
Theo Báo SKĐS
Run vô căn là bệnh chỉ có một triệu chứng duy nhất đó là run: run tư thế và run khi vận động. Run vô căn xuất hiện âm thầm, tiến triển chậm với tỷ lệ bệnh rất thay đổi và thường nhất là run tay. Các nơi khác theo thứ tự thường gặp là đầu, chi dưới, giọng nói và thân mình.
Hiện nay, những tiến bộ ngoạn mục trong thời gian 20 năm qua đã cho ra đời hàng loạt thuốc có hiệu quả quả giảm nguy cơ gãy xương, có thể chia làm 2 nhóm chính: nhớm ức chế tế bào hủy xương Bisphosphonates (như Alendronate, risedronate, zoledronate), Serm (raloxfene), calcitonin… và nhóm kích thích tế bào tạo xương (như strontium ranelate và teriparatide). Tất cả đều đã được thử nghiệm và có hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương từ 30% đến 50%. Tuy nhiên, chỉ có zoledronate được chứng minh là có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong ở bệnh nhân sau khi bị gãy xương.
Thuốc trợ tim được hiểu đơn giản là các thuốc làm tăng lực co bóp của cơ tim, dùng trong các trường hợp suy tim. Các thuốc loại này được chia làm hai nhóm chính: thuốc trợ tim không phải glucosid và thuốc trợ tim glucosid, trong đó digoxin là loại thuốc trợ tim tiêu biểu thường được các thầy thuốc sử dụng nhiều nhất trong lâm sàng.
Hiện ở Mỹ, Canada, thuốc ho, thuốc cảm OTC (thuốc dùng không cần đơn) cho trẻ em dưới 6 tuổi có thể là đơn chất nhưng phần lớn hơn là có ít nhất 2 trong các chất dưới đây: hạ sốt (acetaminohen, ibuprofen), giảm ho (dextromethorphan), kháng histamin (chlopheniramin, phenergan), chống sổ mũi (phenylephrin, pseudomeohedrin, phenylpropanolamin), long đàm (guaifenesin)... Thị trường nước ta thường có các thuốc như siro alimimerazin, atusin, ameflu... cũng chứa 1 hay nhiều thành phần trong các chất nói trên.
Dùng KS không có chỉ định của bác sĩ dẫn đến một số vi khuẩn còn sống sót tạo ra chất chống lại KS đó, gọi là hiện tượng kháng KS.
Trên thị trường hiện đang rao bán và trưng biển quảng cáo cơm hộp sạch nhan nhản. Tại nhiều diễn đàn mạng, cơm hộp sạch được quảng cáo khá mời gọi, bắt mắt bằng những tấm ảnh chụp hộp cơm với các món ăn hấp dẫn và số điện thoại liên lạc. Nhưng cơ sở sản xuất của những hộp cơm này ở đâu thì không ai biết. Do vậy, người tiêu dùng khó phân biệt được đâu là cơm hộp sạch, đâu là cơm hộp tự phát.