Tình trạng mất cân bằng giới ở VN đang ở mức cao. Ảnh: H.Hải

Tình trạng mất cân bằng giới ở VN đang ở mức cao. Ảnh: H.Hải

Báo cáo của Bộ Y tế cho thấy, tỷ số giới tính chênh lệch mạnh ở nhóm người giàu với tỉ lệ 112,9 bé trai/100 bé gái. Trong khi ở nhóm nghèo nhất (20% dân số), tỷ số giới tính khi sinh ở mức 105,2 trẻ trai/100 trẻ gái.

 

Chênh lệch giới cao ở nhóm người giàu

Con số trên được ông Nguyễn Văn Tân, Phó tổng cục trưởng Tổng cục dân số và kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) cho biết tại Hội thảo quốc tế “Mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh: Giải quyết vấn đề và định hướng cho tương lai” diễn ra trong hai ngày 5, 6/10 tại Hà Nội.
 
Ông Tân cũng cho rằng, so với nhiều nước trong khu vực, tình mạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam diễn ra muộn nhưng tốc độ gia tăng nhanh và rất khó dự báo xu hướng này bởi chính sự gia tăng mạnh đó cũng như các “công nghệ” lựa chọn giới tính khi sinh tại Việt Nam.

Theo nghiên cứu của Bộ Y tế, tỷ số giới tính khi sinh chênh lệch cao ở nhóm gia đình có điều kiện kinh tế xã hội cao. Trong khi ở nhóm nghèo nhất (chiếm khoảng 20% dân số) tỷ số giới tính khi sinh ở mức bình thường 105,2 trẻ trai/100 trẻ gái thì ở nhóm trung bình, nhóm giàu và nhóm giàu nhất tình trạng chênh lệch giới rất nặng nề. Cụ thể, tỷ số giới tính khi sinh ở nhóm giàu nhất là 112,9 trẻ trai/100 trẻ gái. Còn ở nhóm giàu nhất, tỉ lệ này lên tới 111,7 trẻ trai/100 trẻ gái. Đặc biệt ở lần sinh thứ 3, mất cân bằng giới ở nhóm giàu nhất lên đến 132,9 trẻ trai/100 trẻ gái.

Cũng một báo cáo nữa cho thấy, càng ở nhóm người giàu càng có điều kiện lựa chọn các phương pháp xác định giới tính thai từ thời kỳ chuẩn bị mang thai (chế độ ăn uống, siêu âm ngày rụng trứng), đến thụ tinh nhân tạo, lọc rửa tinh trùng, siêu âm chẩn đoán giới tính thai từ sớm… để nếu con trai thì giữ lại, thai gái thì xin bỏ vì lý do kế hoạch hóa gia đình.

Những phương pháp được các bà mẹ sử dụng rất phổ biến hiện nay với mong muốn sinh con theo ý muốn là áp dụng theo chế độ ăn uống, siêu âm ngày rụng trứng, siêu âm để biết giới tính thai…

Tại Hội thảo này, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cũng bày tỏ những lo ngại về tình trạng mất cân bằng giới tính tại Việt Nam. Tỷ lệ chênh lệch giới ngày có xu hướng tăng cao. Năm 1979, tỷ số giới tính khi sinh là 105 bé trai/100 bé gái thì năm 1989tăng lên 106 bé trai/100 bé gái, đến năm 2010 là 111 bé trai/gái. Với đà tăng như thế này, dự báo đến năm 2020 tỷ lệ này sẽ là 115 bé trai/100 bé gái. Như vậy, số lượng nam nhiều hơn nữ từ 2,3 đến 4,3 triệu người. Điều này sẽ dẫn đến một loạt các vấn đề dân sinh, xã hội khác.

Phó thủ tướng hy vọng qua hội thảo này, với sự đóng góp ý kiến của các nhà chuyên môn từ nhiều quốc gia sẽ giúp Việt Nam định hướng lại chính sách về phát triển gia đình và xây dựng một hệ thống chăm sóc y tế và xã hội hiệu quả hơn để dần ổn định tình trạng mất cân bằng giới tại Việt Nam.

Cần chế tài xử phạt nặng hơn

“Dù pháp lệnh dân số đã có quy định nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức, tuy nhiên việc thực hiện các quy định này chưa nghiêm. Rất nhiều người đã lách luật để lựa chọn giới tính thai và phá thai khi xác định thai nhi là nữ. Chính vì thế, chúng tôi đang soạn thảo để sửa đổi chế tài xử phạt nặng hơn với những vi phạm này”, ông Tân khẳng định.

Ông Tân cũng dẫn chứng thêm, Hàn Quốc là một trong số ít nước thành công trong việc giảm tỷ lệ giới tính khi sinh và để có được thành công này, họ cũng mất đến 10 năm.

Đạt được thành công này là do chế tài của họ rất nghiêm khắc. “Năm 1996 sau khi Seoul có 8 bác sĩ bị kỷ luật vì tiết lộ giới cho thai phụ trước sinh thì ngay năm sau, tình trạng chênh lệch giới tính của Hàn Quốc đã giảm rõ rệt từ 117 bé trai/100 bé gái giảm xuống chỉ còn 113 bé trai/100 bé gái. Điều này cho thấy, luật nghiêm rõ ràng đã có tác động. Chúng tôi hi vọng, khi sửa đổi chế tài nặng hơn với những vi phạm này, cộng với việc tuyên truyền để người dân giảm bớt tư tưởng trọng nam khinh nữ, thích con trai hơn con gái, giảm bớt áp lực của những gia đình trẻ chỉ có ít con mà lại muốn con trai... thì tình trạng chênh lệch giới tính ở VN sẽ giảm trong tương lai”, ông Tân lạc quan.

 

                                                                             Theo Dantri

Các tin khác

Không có hình ảnh
Không có hình ảnh
Không có hình ảnh
Cán bộ Trạm y tế xã Xuất Hóa (Lạc Sơn)  kiểm tra huyết áp cho phụ nữ mang thai.

Trên 350 triệu đồng triển khai Dự án mục tiêu y tế trường học

(HBĐT) - Trung tâm YTDP tỉnh vừa triển khai Dự án mục tiêu y tế trường học. Theo đó, tổng kinh phí hỗ trợ của Dự án 359 triệu đồng.

Món ăn thuốc trị bệnh răng miệng

Xưa có câu “Thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng”. Đau răng tuy không nguy hiểm nhưng gây nhức buốt và khổ sở vô cùng. Có rất nhiều nguyên nhân gây đau nhức răng như sâu răng, viêm lợi, do ăn uống không khoa học,… Người lớn, trẻ em đều mắc nhưng trẻ em thường mắc nhiều hơn. Theo Đông y, nguyên nhân do âm huyết suy kém, hư hỏa bội, khắc phạt các tạng can, tỳ, phế, thận. Bên cạnh việc dùng thuốc, nên kết hợp ăn uống để tăng hiệu quả điều trị. Sau đây là một số món ăn – bài thuốc chữa đau răng, bạn đọc có thể tham khảo.

Chìa khóa mới trong điều trị nghiện rượu

Có thể tới đây, một loạt các thuốc mới điều trị nghiện rượu và nghiện thuốc lá sẽ ra đời. Mục tiêu lần này là thay đổi một enzym trong não. Kết luận này được công bố sau khi các nhà khoa học tại Trường đại học California (bang San Francisco, Mỹ) tìm ra một enzym có vai trò trong việc gây nghiện rượu và nghiện thuốc lá.

Trị gút và các bệnh phối hợp thế nào?

Tăng axit uric máu (AU) chịu tác động của yếu tố gen và thực phẩm. Nghiên cứu ở Trung Quốc còn cho thấy nam giới có mức tiêu thụ nhiều nước giải khát (soda) dẫn đến nguy cơ gút rất cao. Tăng AU nguyên phát, có vai trò của gen GLUT (Transfert Glucose - gen vận chuyển glucose hoặc fructose) và nhiều gen khác tham gia. Tăng insulin máu làm giảm bài tiết urat niệu và dẫn đến tăng AU. Sử dụng thực phẩm giàu chất purin, các loại rượu mạnh dẫn đến tăng sản xuất urat và tăng tổng hợp uxit uric.

Tác dụng không mong muốn của thuốc điều trị lao: Xử lý và phòng ngừa

Những người mắc bệnh lao thường phải dùng thuốc theo phác đồ gồm nhiều loại. Thời gian điều trị củng cố kéo dài, điều trị ngoại trú và tự uống thuốc. Có rất nhiều trường hợp bệnh nhân khi dùng thuốc chống lao gặp phải các tác dụng không mong muốn, nếu không có hiểu biết đầy đủ rất dễ dẫn đến việc bỏ thuốc giữa chừng khiến bệnh không khỏi và lây lan trong cộng đồng, gây nên tình trạng vi khuẩn lao kháng thuốc.

Rửa tay với xà phòng vì một cộng đồng khỏe mạnh

Lợi ích của rửa tay với xà phòng trong phòng chống dịch bệnh lây lan vốn không xa lạ với đời sống của người dân; tuy nhiên, thói quen này vẫn chưa được hầu hết chúng ta xem trọng, thực hành thường xuyên và hàng ngày.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục