(HBĐT) - Là mắt xích cuối cùng trong dây chuyền dẫn vốn ưu đãi, thực tế cho thấy, tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) là nền tảng để nâng cao hiệu quả và chất lượng vốn tín dụng. Tổ hoạt động tốt, tương trợ, phổ biến kinh nghiệm giúp người vay sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả.
Buổi giao dịch định kỳ hàng tháng giữa NHCSXH
huyện Mai Châu với tổ chức hội, đoàn
thể và các tổ trưởng tổ TK &VV xã Tòng Đậu.
Tổ TK &VV xóm Săng Trệch, xã Vầy Nưa (Đà Bắc) được
thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2004, ban đầu có 15 thành viên; dư nợ 45
triệu đồng và thực hiện 1 chương trình tín dụng chính sách là cho vay hộ nghèo.
Ban quản lý tổ TK &VV được củng cố lại duy trì hoạt động, đến nay có 43
thành viên và thực hiện cho vay 8 chương trình tín dụng chính sách, dư nợ 1.356
triệu đồng, số dư tiền gửi tiết kiệm qua tổ là 46 triệu đồng với 100% thành
viên gửi tiền tiết kiệm.
Trên tinh thần hướng đến mô hình tổ đáp ứng yêu cầu
quản lý tín dụng chính sách có quy mô ngày càng lớn và chất lượng cao hơn,
NHCSXH quy định tổ TK &VV hoạt động độc lập với các tổ chính trị - xã hội
nhận uỷ thác. NHCSXH ký hợp đồng uỷ nhiệm với các tổ TK &VV, hoạt động của
tổ được NHCSXH trả hoa hồng tính trên số lãi thực thu. Tổ TK &VV được
NHCSXH hướng dẫn mở sổ sách, ghi chép theo dõi nợ vay, kết quả trả nợ, trả lãi
của từng thành viên trong tổ. Việc thành lập tổ TK &VV theo cấp thôn, xóm
đã giúp việc quản lý nguồn vốn được tốt, hộ vay thuận lợi hơn trong việc bình
xét và thuận tiện sinh hoạt định kỳ theo quy ước hoạt động của tổ; đồng thời
thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát, công khai, dân chủ hạn chế tình trạng
chiếm dụng nợ gốc, nợ lãi của thành viên trong tổ hoặc vay ké.
Một điều đáng ghi nhận trong hoạt động dẫn vốn của các
tổ chức hội, đoàn thể là đã khéo léo kết hợp các buổi sinh hoạt với tuyên
truyền sử dụng đồng vốn đúng mục đích bằng việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất. Đây cũng là dịp để nâng cao trình độ của những người quản lý TK &VV,
nhân rộng những điển hình tiên tiến trong quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn vốn
vay, phối hợp chặt chẽ với chính quyền cơ sở xác nhận đúng đối tượng cho vay,
tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay, thực hiện tốt 6 công đoạn
ủy thác với NHCSXH… Thực tiễn cho thấy, địa phương nào tổ chức tốt hoạt động ủy
thác qua các tổ chức chính trị - xã hội với "chân rết” là các tổ TK &VV thì
hiệu quả sử dụng đồng vốn tương đối cao. Điều này cũng giải thích vì sao nguồn
vốn chính sách tuy nhỏ nhưng lại đi vào cuộc sống người dân nhanh và bền chặt
như vậy.
ông Vũ Đình Đoài, Giám đốc NHCSXH tỉnh cho biết: Hiện
nay, toàn tỉnh có 210 điểm giao dịch tại các xã, phường, thị trấn với 2.857 tổ TK &VV của 4 tổ chức hội, đoàn
thể với tổng dư nợ đạt trên 2.845 tỉ đồng. Trong đó có 2.649 tổ TK &VV
không có nợ quá hạn, chiếm 92,7% số tổ. Qua đánh giá xếp loại, có 2.664 tổ xếp
loại tốt, 179 tổ xếp loại khá, 9 tổ xếp loại trung bình và 5 tổ xếp loại yếu.
Việc tổ chức giao dịch lưu động trên địa bàn thời gian qua đã tạo điều kiện cho
người nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, góp phần
tiết kiệm chi phí. Hàng ngàn hộ nghèo và các đối tượng chính sách không phải
mất thời gian, công sức đến trụ sở ngân hàng mà vẫn được vay vốn, trả nợ, trả
lãi... tại trụ sở UBND xã. Đồng thời,
thông qua các điểm giao dịch giúp ngân hàng nắm rõ hơn cơ sở, kịp thời có những
kiến nghị, đề xuất điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương
nhằm tăng cường quản lý và chuyển tải vốn tín dụng chính sách, khuyến khích sự
tương trợ giúp đỡ người nghèo và đối tượng chính sách xã hội từ chính cộng
đồng. Trong thời gian tới, NHCSXH tiếp tục củng cố hoạt động của tổ TK &VV,
góp phần nâng cao hiệu ứng các chương trình tín dụng của Chính phủ mà NHCSXH
đang và sẽ thực hiện uỷ thác. Bên cạnh đó, NHCSXH tỉnh chỉ đạo các phòng giao
dịch trên địa bàn chấp hành nghiêm chỉnh lịch giao dịch theo thời gian đã quy
định, công khai mọi thủ tục, chế độ liên quan đến đối tượng vay vốn là hộ nghèo
và đối tượng chính sách khác... Từ đó, nâng cao hiệu quả và chất lượng tín dụng,
tiếp tục góp phần tích cực vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo ở địa phương.
Đinh Thắng
(HBĐT) - 6 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu trên địa bàn tỉnh ước đạt 308, 175 triệu USD, tăng 31% so với cùng kỳ năm trước, bằng 50,52% kế hoạch năm.
(HBĐT) - Ngày 9/7/2018, UBND huyện Cao Phong ban hành Văn bản số 529/UBND-NN& PTNT về việc thông báo kết thúc vụ thu hoạch sản phẩm cam quả huyện Cao Phong.
Sau 18 năm, kể từ ngày chỉ dẫn địa lý (CDĐL) đầu tiên được bảo hộ ở Việt Nam, số lượng CDĐL ngày càng tăng. Bước đầu, CDĐL đã giúp các địa phương, doanh nghiệp định hình một giải pháp phù hợp là sử dụng công cụ sở hữu trí tuệ để nâng cao giá trị, tính cạnh tranh của sản phẩm, nhất là sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều CDĐL chưa thật sự phát huy hết giá trị, chưa trở thành dấu hiệu nhận diện trên thị trường do bất cập của chính sách và ý thức bảo vệ, khai thác CDĐL của chủ thể chưa cao.
(HBĐT) - Năm 2017, tỉnh Hòa Bình đứng thứ 52/63 tỉnh, thành phố về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), giữ nguyên về thứ hạng so với năm 2016, tụt 6 bậc so với năm 2015 và ở nhóm tương đối thấp. Dù đây chỉ là sự cảm nhận của doanh nghiệp về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp dân doanh của chính quyền địa phương nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết để cải thiện môi trường kinh doanh của tỉnh. Doanh nghiệp, nhà đầu tư vào tỉnh cho rằng vẫn còn khoảng cách rất lớn giữa cấp trên và cách hành xử của cấp dưới. Cơ chế phối hợp giữa các sở, ngành chưa hiệu quả, tốn thời gian, gây mất cơ hội đầu tư của doanh nghiệp.
(HBĐT) - Thời gian qua, huyện Lương Sơn tiếp tục triển khai các đề án ngành nông nghiệp, các dự án liên kết mở rộng sản xuất, tiêu thụ rau hữu cơ theo chuỗi giá trị, phát triển các hợp tác xã và nhóm sản xuất rau hữu cơ, xây dựng các mô hình trình diễn áp dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.
(HBĐT) - 6 tháng đầu năm nay, tổng thu NSNN trên địa bàn TP Hòa Bình ước thực hiện 180,266 tỷ đồng, đạt 58,53% dự toán. Trong các chỉ tiêu thu trong cân đối ngân sách có 6 chỉ tiêu ước đạt trên 50% dự toán gồm: thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh; thuế thu nhập cá nhân; thu phí, lệ phí; thu khác ngân sách; thuế bảo vệ môi trường; thu từ quỹ đất công ích.