Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, 2 tháng đầu năm 2024, nhóm hàng dệt may đạt 5,2 tỷ USD xuất khẩu, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước, xếp thứ 4 trong nhóm mặt hàng có kim ngạch cao nhất cả nước.
Việc "xanh hóa" ngành dệt may được cho là sẽ có lợi thế hơn khi tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Ảnh tư liệu: TTXVN
Các chuyên gia nhận định, kết quả này có được là nhờ tình hình thị trường tiêu dùng hàng dệt may thế giới dần ấm lại từ cuối năm 2023. Cộng đồng doanh nghiệp dệt may trong nước cũng tích cực "xoay xở" tìm kiếm đơn hàng; đồng thời, ngành này cũng đang từng bước thích ứng yêu cầu của thị trường nhập khẩu đó là xanh hóa trong sản xuất.
Theo ông Thân Đức Việt, Tổng giám đốc Tổng công ty May 10, việc xanh hóa trong sản xuất đã không còn là việc muốn hay không mà đến nay đã trở thành yêu cầu bắt buộc. Việc dần thích ứng của doanh nghiệp Việt sẽ giúp xuất khẩu hàng hóa bền vững. May 10 đã triển khai việc "xanh hóa” sản xuất trong khoảng 3 năm qua, bằng những việc làm cụ thể như đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại, sử dụng ít điện năng, hay như đầu tư nhiều vào hệ thống năng lượng mặt trời, điện áp mái, liên kết chuỗi sản xuất tại Việt Nam và nước ngoài để sử dụng nhiều nhất các sản phẩm từ tái chế, từ thiên nhiên để đảm bảo tỷ trọng xuất xứ nguyên liệu từ sợi trong cấu thành của sản phẩm theo đúng yêu cầu của khách hàng. Ngay cả trong quá trình sản xuất, những nhiên liệu đầu vào đốt bằng than cũng đang được chuyển đổi sang nhiên liệu bằng điện sinh khối để đảm bảo khí thải carbon được ít nhất. Dự kiến, trong năm 2024, nếu toàn bộ dự án của May10 đi vào hoạt động sẽ giúp giảm phát thải được hơn 20 nghìn tấn carbon ra môi trường.
Hiện nay, đã có rất nhiều thương hiệu lớn trên thế giới trong ngành dệt may công bố lộ trình sử dụng sản phẩm có nguồn gốc tái chế, tự nhiên và tuần hoàn trong quá trình phát triển từ nay đến năm 2050. Các nhà mua hàng, nhất là các nhãn hàng lớn và chuỗi kinh doanh quốc tế, đang tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu của họ để bảo đảm các mục tiêu bền vững nghiêm ngặt. Những yêu cầu này nhấn mạnh các vấn đề như hiệu quả môi trường, sử dụng vật liệu tái chế, tìm kiếm các vật liệu hữu cơ hoặc bền vững, giảm tiêu thụ năng lượng và bảo tồn các nguồn tài nguyên không thể tái tạo như nhiên liệu hóa thạch và nước. Sức ép này từ người tiêu dùng sẽ là lực đẩy để các nhãn hàng cam kết và hành động cải thiện tính bền vững trong suốt chuỗi cung ứng của họ.
Ở châu Âu, hiện cũng đã có Thỏa thuận Xanh (EGD) với các mục tiêu đề ra từ nay đến 2030 và tầm nhìn 2050; trong đó có thỏa thuận riêng về phát triển dệt may bền vững với rất nhiều yêu cầu về nguyên vật liệu tái chế, tuổi thọ của sản phẩm. Dự kiến trong năm 2024, EU cũng đưa ra quy định Ecodesign trong ngành dệt may để hạn chế rác thải dệt may, hạn chế rác thực phẩm trong Fark to fork. Các quy định này đều đòi hỏi các nhà sản xuất, xuất khẩu phải có sự chuẩn bị và chuyển đổi sản xuất tương ứng.
Giáo sư. Tiến sĩ Andreas Stoffers, Giám đốc quốc gia Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) tại Việt Nam cho hay, với dệt may Việt Nam, EU đã và đang là thị trường xuất khẩu quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, với EU, dệt may lại đứng trong Top đầu các ngành làm suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu. Do đó dệt may cũng thuộc nhóm tập trung nhiều nỗ lực xanh nhất của EU. Phần lớn các chính sách xanh của EU về dệt may được tập trung tại chiến lược dệt may tuần hoàn và bền vững với các định hướng chính sách về thiết kế sinh thái bảo đảm độ bền, khả năng sửa chữa, tái chế, tăng cường thông tin qua hộ chiếu số của sản phẩm, các yêu cầu thông tin nhằm chống gian dối về tính xanh, hạn chế tối đa phát tán hạt vi nhựa từ sản phẩm dệt may ra môi trường, giảm thiểu các hóa chất độc hại trong sợi và áp dụng trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất…
So với nhiều ngành hàng, lĩnh vực khác, tiêu chuẩn áp dụng với ngành dệt may được đánh giá là phức tạp, thách thức hơn và đáng kể hơn, có phạm vi bao trùm tất cả các sản phẩm dệt may và được luật hóa dưới dạng các yêu cầu pháp lý tối thiểu, bắt buộc thực hiện mà không phải chỉ là các khuyến nghị. Thêm vào đó, các tiêu chuẩn, biện pháp, quy định của Thỏa thuận Xanh EU tác động đến nhiều khâu trong chuỗi sản xuất, từ thiết kế mẫu mã đến nguyên phụ liệu, từ sản xuất, nuôi trồng đến vận chuyển, từ sử dụng đến sửa chữa, từ thải bỏ đến tái chế… mà không phải chỉ áp dụng với thành phẩm cuối cùng.
Tuy thách thức là vậy, xong nếu tuân thủ và thực hiện nghiêm túc các tiêu chuẩn xanh hóa trong ngành sản xuất sẽ giúp việc chuyển đổi sang sản xuất xanh một cách chủ động, đồng bộ và toàn diện. Đây chính là cơ hội lớn cho doanh nghiệp và cũng là cách thức tốt nhất để doanh nghiệp có thể đi trước một bước, tiếp cận sớm thị trường các sản phẩm xanh đầy tiềm năng của EU với tệp khách hàng có ý thức tiêu dùng xanh đang gia tăng mạnh mẽ của khu vực này. Đồng thời, thích ứng sớm với các yêu cầu xanh ở EU cũng mang đến sự bảo đảm nhất định cho khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp đi các thị trường phát triển khác như Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản, Australia…
Ở góc độ nghiên cứu, Chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh cho hay, quá trình xanh hóa sản xuất, giảm phát thải carbon đã được nhiều doanh nghiệp quan tâm hơn. Mặc dù sự thay đổi chưa nhiều nhưng chuyển biến là thấy rõ. Việc này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa của Việt Nam tiếp cận với các thị trường khó tính.
Tuy nhiên, đang có một thực tế là việc đáp ứng các tiêu chuẩn xanh trong ngành dệt may đòi hỏi chi phí chuyển đổi rất lớn, thời gian chuyển đổi rất dài. Trong khi hầu hết các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa, việc chuyển đổi hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm kê khí nhà kính đòi hỏi cần nhanh hơn, tốn ít chi phí hơn.
"Do đó, bên cạnh sự nỗ lực của doanh nghiệp cần sự đồng hành của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương trong việc tạo hành lang chính sách nhằm khuyến khích nhà đầu tư hướng đến "sản xuất xanh"; trong đó, chủ yếu là những chính sách về tín dụng với lãi suất và hạn mức ưu đãi hơn cho doanh nghiệp đầu tư và sản xuất sản phẩm xanh. Đây cũng chính là bước đi cụ thể của Việt Nam để đạt được cam kết "zero carbon” vào năm 2050", Chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh khuyến nghị.
Theo TTXVN
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác cải cách hành chính, nâng cao chất lượng, hiệu quả phục vụ nhân dân, Công an tỉnh đã triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo của Bộ Công an về phê duyệt danh mục dịch vụ công trực tuyến toàn trình, một phần cung cấp trên Cổng dịch vụ công Bộ Công an.
Năm 2023, tỉnh Hòa Bình được phân bổ 10.090 tỷ đồng vốn ngân sách nhà nước theo Quyết định số 1513 của Thủ tướng Chính phủ; 10.220 tỷ đồng theo Nghị quyết HĐND tỉnh. Đến hết tháng 12/2023, toàn tỉnh chỉ giải ngân được trên 2.800 tỷ đồng, đạt 28%, thuộc nhóm có tỷ lệ giải ngân thấp nhất cả nước. Đây là năm thứ hai Hòa Bình không hoàn thành kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công, gây áp lực không nhỏ cho công tác đầu tư công năm 2024. Chính vì vậy, để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công rất cần sự chỉ đạo quyết liệt, sự phối hợp của nhiều sở, ngành, địa phương và quyết tâm thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện.
Cải thiện mạnh mẽ chất lượng môi trường kinh doanh, đẩy mạnh thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh. Tập trung cải thiện chỉ số xếp hạng năng lực cạnh tranh (PCI) tỉnh Hòa Bình. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp (DN), HTX mới thành lập mới… Đó là mục tiêu UBND tỉnh đặt ra nhằm củng cố niềm tin và tạo thêm động lực cho DN vượt qua khó khăn, tiếp tục phục hồi và phát triển.
Sáng 8/3, đồng chí Trần Lưu Quang, Phó Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì phiên họp thứ 5, Ban chỉ đạo Trung ương các Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) giai đoạn 2021 - 2025 trực tuyến với các địa phương nhằm đánh giá nhiệm vụ năm 2023 và 2 tháng đầu năm 2024; triển khai nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới. Tham dự hội nghị có lãnh đạo các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố. Dự tại điểm cầu tỉnh ta có đồng chí Đinh Công Sứ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh; các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố.
Theo Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh, cho vay hộ sản xuất, kinh doanh vùng khó khăn theo Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là 1 trong 4 chương trình tín dụng có dư nợ lớn nhất trong các chương trình mà chi nhánh đang quản lý. Đến hết tháng 2/2024, dư nợ chương trình tín dụng này đạt trên 701 tỷ đồng với gần 16,8 nghìn khách hàng còn dư nợ.
Trong 2 tháng đầu năm 2024, trên địa bàn tỉnh có 5.740 lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Doanh số cho vay đạt trên 269 tỷ đồng, tập trung vào các chương trình tín dụng: giải quyết việc làm (72,5 tỷ đồng), hộ nghèo (50,1 tỷ đồng), hộ cận nghèo (43,7 tỷ đồng), hộ mới thoát nghèo (25 tỷ đồng), nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (28 tỷ đồng).