Nhiều người vẫn bảo, Hòa Bình có 3 thứ đặc sản nhất định phải thử khi đến với vùng đất này. Đó là cá ốch đồ măng chua, da trâu khô nấu canh môn và rượu cần. Không chỉ là ẩm thực, những sản vật này mang trong mình nét đặc sắc văn hóa của dân tộc Mường. Chẳng vậy mà "Rượu cần xứ Mường Hòa Bình” đã nhiều lần được xướng tên như thứ đặc sản tiêu biểu trên nhiều diễn đàn trong nước và quốc tế. Đặc biệt hơn, vào tháng 11/2024, tại Tuần Văn hóa - Du lịch tỉnh Hòa Bình, lần đầu tiên tỉnh tổ chức "Lễ hội rượu cần" hoành tráng và thấm đượm chất sử thi...
Rượu cần thường được người Mường ở xóm Đồi Thung, xã Quý Hòa (Lạc Sơn) mang ra uống trong mỗi dịp họp mặt gia đình và khi có khách quý.
Ra đời từ bàn tay khéo léo và đức hạnh của người con gái Mường
Tôi không phải là người Mường nhưng tôi lại được đất Mường dung dị nuôi dưỡng. Ít nhiều trong huyết quản cũng có cái "chất” Mường. Tôi thích các món ăn của người Mường. Bởi trong mỗi món ăn là sự khéo léo, thể hiện đức hạnh của người con gái, phụ nữ Mường.
Rượu cần cũng vậy!
Không rõ rượu cần có từ bao giờ. Song nhiều cao niên kể lại, rượu cần của người Mường ra đời từ bàn tay khéo léo, trí thông minh và đức hạnh của người con gái Mường. Uống rượu cần là uống sữa mẹ thiên nhiên và uống cái tình người nồng ấm!
Chuyện kể rằng, xưa kia, ở bản Mường nọ, một ông cụ có 2 người con dâu. Cụ muốn thử xem ai là người thông minh, đức hạnh. Cụ bảo: "Bố đi ăn uống đã nhiều, nhưng chưa được ăn con gì mà thịt lại nằm trong xương, cũng chưa được uống loại nước gì chảy ngược ngọt ngào, mãn vị. Các con cố tìm về cho bố được ăn, được uống...”. Nghe vậy, cô con dâu cả nghĩ mãi, không hiểu đó là thức ăn, thức uống gì. Cô con dâu thứ hai cũng bối rối, hỏi chỗ này chỗ khác cũng không ai biết thức ăn, thức uống ấy ra sao. Cô buồn rầu ra suối ngồi. Bỗng nhìn thấy con ốc bên bờ suối. Cô nói như reo: "Phải rồi! Con ốc, ruột trong mềm, vỏ ngoài cứng, thế chẳng phải thịt nằm trong xương sao?"! Bên bờ suối lại có ai đã cắm một cái vòi để cho nước chảy ngược lên máng. Muốn nước chảy ngược cũng phải làm như vậy. Cô liền bắt một mớ ốc về nấu canh, múc một bầu nước đổ vào chiếc vò trong nhà rồi vót cái cần cắm vào. Cứ để nước lã như thế thì chẳng có mùi vị gì, cô bỏ thêm vài nắm lá thuốc hái trong rừng. Đưa về nhà thì ông cụ đi vắng. Cô bèn giấu kín các thức đã chuẩn bị, chờ bố về.
Mang giá trị văn hóa sâu sắc của đồng bào dân tộc, rượu cần đã trở thành món quà có ý nghĩa từ đất Mường gửi đến muôn phương. (Ảnh tại cơ sở sản xuất rượu cần Mường Vang, thành phố Hòa Bình).
Còn người chị dâu cả nghĩ chưa ra cách, thấy em có thứ giấu mình thì bực bội, liền lén bỏ vào vò một nắm bã trấu và tấm vụn. Không ngờ lá thuốc, trấu, tấm quện lại, lên men, hóa thành một thứ rượu ngọt ngào. Sau khi ông cụ về nhà, được thưởng thức món canh ốc, rồi cầm cần hút thứ nước ngọt ngào trong vò. Đó đúng là những thứ mà ông yêu cầu. Ông cụ khen cô con dâu thứ, rồi giao cả cơ nghiệp cho cô...”.
Và lịch sử xa xôi của rượu cần có từ đó!
Cũng như những loại rượu khác, thứ quan trọng nhất quyết định rượu ngon hay không chính là men rượu. Men rượu giống như linh hồn của vò rượu vậy. Thứ men ngon nhất từ trước tới nay mà người Mường hay dùng là men lá. Đó là một loại men chế biến từ nhiều loại lá cây được lấy ở trên rừng và quanh vườn nhà. Với những nguyên liệu đặc biệt như ớt, gừng, riềng, lá mít, lá ổi và nhiều loại lá cây rừng khác, cùng vỏ cây gỗ mun đã làm ra thứ rượu ngọt ngào, có lợi cho sức khỏe và có giá trị tinh thần, văn hóa cộng đồng sâu sắc.
Nguyên liệu làm rượu cần gồm gạo nếp, trấu và men rượu. Gạo nếp được ngâm qua một đêm để mềm, trấu rửa thật sạch, phơi khô, sau đó trộn đều tất cả gạo, trấu với nhau cho vào cốp gỗ đồ chín. Sau khi đồ gạo thành cơm thì để nguội rồi mới trộn men vào và tiếp tục ủ lên men. Người trộn men phải làm sao cho men thật đều, ngấm vào từng hạt cơm, hạt trấu. Khi rượu lên men người ta sẽ cho vào vò chờ đến lúc uống được. Vò ủ phải được đậy kín. Khoảng 20 ngày chất rượu đã ngọt tê nơi đầu lưỡi, mang đủ âm vị của núi rừng. Bởi rượu này được "Ủ từ lá sắc rừng gai/Chắt từ củ mài hốc đá/Có ngọt mật ong/Có chua măng ướp chum vò/Có cay của bạn tình cắn nhầm hạt ớt... Đã uống vắt kiệt chum mà uống/Đã say đổ tràn tình mà say..." như cố nhà thơ Lò Cao Nhum từng phê pha, chếnh choáng qua những vần thơ như say nghiêng núi, say ngả rừng...
Từ văn hóa rượu cần đến văn hóa cộng đồng sâu sắc
Làm rượu cần vốn đã cầu kỳ, người Mường uống rượu cũng cầu kỳ không kém. Trong cuộc sống, người Mường có nhiều hình thức tổ chức uống rượu cần. Tiêu biểu là uống "xúm lúm” (nội bộ gia đình uống với nhau) và uống cộng đồng mường bản (rượu được uống với đông đảo người trong Mường tham gia). Rượu cần được mang ra uống "xúm lúm” với nhau vào buổi trưa nắng, giờ giải lao hoặc buổi tối uống cho đã thèm, đỡ mệt. Ai uống bao nhiêu thì uống chứ không theo luật tục nào. Thường những người trong gia đình hay ngồi uống ở ngay góc bếp nhà sàn. Trước khi uống người ta hướng tất cả cần rượu về phía bếp một lúc với ngầm ý để ba vị vua bếp uống trước. Sau đó, mọi người mới được uống. Tục uống rượu cần của người Mường thường uống theo cặp. Chẵn đi với chẵn, lẻ đi với lẻ. Dùng hai hoặc ba cần một lúc. Rượu hết đến đâu nước lại được cho thêm vào. Sao cho mặt nước trong vò rượu lúc nào cũng mấp mé chực tràn miệng. Cũng có lúc, theo tục lệ, những người uống rượu cần chia thành hai phe, phe nào uống kém thì sẽ bị phạt theo quy ước của cuộc thi.
Theo những nhà nghiên cứu văn hóa, tục uống rượu cần thể hiện cách uống rượu mang tính cộng đồng đông và vui để gắn kết những người dân trong bản, trong Mường. Nếu có khách, chủ nhà trải chiếu giữa sàn rồi bưng vò rượu đặt chính giữa. Sau đó, mời tất cả những người có mặt trong nhà ngồi vòng quanh. Sau những lời hỏi thăm sức khoẻ gia đình, quê quán, chủ nhà mời tất cả cùng chụm môi uống "của vườn, của suối cho bớt mệt nhọc đường xa”. Người Mường gọi đấy là uống thông cần. Tiếp theo là uống đôi (chủ và khách), uống nam nữ, uống bốn người, uống sáu người và nhiều người nữa. Họ vừa uống vừa hát, hỏi thăm, hát mời, hẹn ước...
Những sinh hoạt văn hóa truyền thống đó đã trở thành nét đẹp văn hóa, sinh hoạt cộng đồng của người Mường ở Hòa Bình. Vò rượu cần đã trở thành "sợi dây” kết nối giữa người với người, giữa bản với bản. Uống cho say cả núi, say cả rừng. Càng uống, tình người lại càng bền chặt, càng gắn cái tình chiêng, tình trống. Đó chính là nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng sâu sắc mà rượu cần đã mang lại cho đồng bào dân tộc Mường. Cũng chính vì lẽ đó mà suốt nhiều năm qua, rượu cần luôn được tôn vinh là thứ đặc sản, tinh hoa văn hóa của núi rừng Hòa Bình.
Vũ Phong
Mùa Xuân về, Hòa Bình bừng sáng trong những thanh âm và sắc màu đầy sức sống. Tiếng nhạc rộn ràng, những khúc ca đậm bản sắc dân tộc từ cộng đồng các dân tộc Mường, Thái, Mông, Dao, Tày, Kinh… vang lên giữa núi rừng, tạo nên không gian giao hòa tuyệt diệu giữa con người và thiên nhiên.
Tỉnh Hòa Bình là vùng đất có cư dân bản địa dân tộc Mường chiếm hơn 63% dân số, là trung tâm đồng bào dân tộc Mường cả nước. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, dân tộc Mường đã sáng tạo và lưu giữ được nền văn hóa dân gian phong phú, đa dạng, trong đó, Mo Mường là loại hình nổi bật, độc đáo chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc. Trải qua bao thế hệ, người Mường đã bền bỉ lưu giữ, truyền miệng và phát huy giá trị của Mo Mường, tạo nên sức sống và sức lan tỏa sâu rộng của di sản văn hóa phi vật thể (DSVHPVT) đặc biệt này.
Hòa Bình là tỉnh có dân tộc Mường sinh sống nhiều nhất, chiếm trên 63% dân số và có sự hiện diện của nhiều di sản văn hóa (DSVH), đem lại nhiều giá trị vật chất, tinh thần quan trọng trong đời sống nhân dân. Trang phục truyền thống là một DSVH đặc biệt. Trang phục được người dân trang trọng mặc trong dịp lễ hội, Tết, sự kiện chính trị, văn hóa của địa phương. Tỉnh đã và đang thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân tộc Mường, trong đó có trang phục truyền thống.
Khi những cánh hoa đào, hoa mận khoe sắc rực rỡ trên triền đồi cũng là lúc đồng bào Mường nơi vùng quê cách mạng Thạch Yên - Cao Phong chuẩn bị vui Xuân, đón Tết. Đã thành lệ, dù đi xa về gần, đúng ngày 28/12 âm lịch, người dân tập trung đông đủ cùng người thân chuẩn bị làm lễ "tát giếng" trên đỉnh Vó Vua. Theo những người già trong làng chia sẻ, chỉ khi làm xong lễ "tát giếng", nhà nhà mới bắt đầu mổ lợn, đồ xôi, gói bánh ăn Tết, bởi khi tiết trời đầu xuân, người dân làm lễ xin nước, lấy nước mới, nước mát về gia đình mong cho cuộc sống quanh năm được an lành, hạnh phúc, may mắn...