(HBĐT) - “Trị con sông Đà. Chịt nó lại, buộc nó phải vọt tóe ra thành lửa cao thế, thành lò cừ làm ra của cải cho sự sống con người. Điều mơ lớn bao niên, nay đang là hiện thực…” - Nhà văn Nguyễn Tuân đã háo hức mở đầu như vậy trong tùy bút “Sông Đà đỏ” khi ông từ miền xuôi ngược lên thị xã Hòa Bình (nay là TP Hòa Bình) để tận mắt chứng kiến những dấu hiệu đầu tiên của công cuộc trị thủy sông Đà. Đó là vào cuối năm 1976, tức 3 năm trước khi khởi công xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình và 18 năm trước khi “kỳ tích của thế kỷ XX” chính thức ngự trị để biến con sông Đà hung dữ trở thành dòng sông năng lượng mang ánh sáng dồi dào đến với mọi miền của Tổ quốc.

Thủy điện Hòa Bình - niềm tự hào trên “dòng sông ánh sáng”.

 

Đã 40 năm có lẻ kể từ ngày đó đến nay. Vào thời điểm Nguyễn Tuân tham gia đoàn khảo sát địa chất để tiến hành trị thủy sông Đà, dấu hiệu của đại công trường Thanh niên Cộng sản xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình tuy mới chỉ manh nha xuất hiện nhưng đã khiến lòng người nao nức với biết bao phác họa và hình dung. Còn đối với những ai được tận mắt chứng kiến sự hiện thân vĩ đại của công trình thế kỷ này, niềm tự hào chắc chắn sẽ nhân lên gấp bội. Bà Trần Thị Duyên (phường Hữu Nghị, TP Hòa Bình) vẫn nhớ như in ấn tượng của mình trong ngày 20/12/1994 khi bà xúc động chứng kiến lễ khánh thành Nhà máy thủy điện Hòa Bình. Đó là một ngày thực sự ý nghĩa, khép lại 15 năm “dãi nắng dầm mưa” trên công trường của bà cũng như hàng vạn người “lính” công nhân sông Đà khác. Bà Duyên đã rời quê hương đi theo tiếng gọi của “dòng sông ánh sáng” để tham gia xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình từ cuối những năm 1970. Đối với bà, 15 năm (1979 - 1994) xây dựng công trình là 15 năm đáng nhớ nhất trong cuộc đời, gian khó nhất nhưng cũng tự hào nhất. Bằng sức mạnh của khối óc và bàn tay, những người thợ sông Đà đã cùng nhau thực hiện khối lượng công việc đồ sộ: Xây dựng hàng trăm ngàn m2 nhà xưởng; đào đất, đá 10 triệu m3; đào hầm 16.000 m dài; đắp đập 20 triệu m3, bê tông 1,5 triệu m3, kết cấu thép 85.000 tấn…

 

Thực tiễn trên công trường xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình đã chứng minh nhân tố con người có ý nghĩa quyết định trong mọi điều kiện, mọi thời điểm. Chính những con người trẻ tuổi đã đứng vững trong mưa bão, lũ lụt, trong nắng bụi cháy da, trong những đường hầm thiếu dưỡng khí… để làm nên những kỳ tích đáng tự hào. Khép lại 15 năm xây dựng, công trình thủy điện Hòa Bình đã mở ra một kỳ tích dường như chỉ có trong huyền thoại. Kỳ tích được tạo dựng bằng trí óc, công sức, mồ hôi và máu của bao người. Đó là một kỳ tích của thế kỷ XX, nhưng chắc chắn sẽ mãi là niềm tự hào của nhiều thế hệ sau này. 

 

Ngày nay, không còn ai nghi ngờ về những lợi ích to lớn mà công trình thủy điện Hòa Bình mang lại cho đất nước. Trong 28 năm vận hành, nhà máy luôn giữ vai trò là công trình nguồn điện quan trọng bậc nhất trong hệ thống điện Việt Nam. Với 8 tổ máy có tổng công suất lắp đặt 1.920 MW, sản lượng thiết kế bình quân 8,16 tỉ KW/năm, đến nay, Nhà máy thủy điện Hòa Bình đã sản xuất đạt mốc sản lượng trên 200 tỉ Kwh điện cung cấp lên hệ thống điện quốc gia. Đây là mốc sản lượng mà cho đến nay chưa có nhà máy điện nào ở Việt Nam đạt được. Với việc chinh phục sông Đà từ một con sông hung bạo trở thành “dòng sông ánh sáng” thiết thực phục vụ cho đời sống của con người, công trình thủy điện Hòa Bình đã xuất sắc hoàn thành sứ mệnh trong công cuộc “xẻ núi, ngăn sông” tưởng chừng như vượt quá giới hạn của cả con người và máy móc.

 

Một lượng nước khổng lồ đạt gần 9,5 tỉ m3 đã được chế ngự thành công bằng một công trình đồ sộ được đánh giá là phức tạp bậc nhất cho tới tận thời điểm này. Từ trên cao nhìn xuống toàn cảnh công trình, ấn tượng hoành tráng nhất là con đập khổng lồ chạy theo một đường vòng cung bao chặn lấy con sông Đà giờ đây đã hoàn toàn bị chinh phục. Do hiểu rõ những hóc hiểm và bất trắc của dòng sông Đà hung dữ nên những kỹ sư vĩ đại của thế kỷ XX đã thiết lập giải pháp thi công màng chống thấm, xây dựng con đập đất đá có khả năng chịu được động đất lên tới cấp 8. Đây là hạng mục lớn nhất của công trình thủy điện Hòa Bình và cho tới thời điểm này vẫn được đánh giá là có mức độ phức tạp bậc nhất so với những con đập được xây dựng tại Việt Nam. Đập có chiều cao từ đáy sông lên đỉnh đập 128 m, tương đương với chiều cao của tòa nhà 35 tầng, chiều dài trên mặt đập 640 m và phía dưới lòng sông 300 m. Con đập ngăn dòng chảy của sông Đà tạo thành một hồ trữ nước khổng lồ, đồng thời trở thành điểm nhấn đặc sắc trên quần thể công trình thủy điện.

 

Con sông Đà hung dữ đã trở thành dòng sông năng lượng, mang ánh sáng đến mọi miền Tổ quốc.

 

Cũng nằm trong quần thể công trình mang tầm vóc thế kỷ đó, có một đài tưởng niệm được xây dựng khang trang nhằm tưởng nhớ đến những hy sinh vì dòng điện của Tổ quốc. Cách nhà máy thủy điện khoảng 300 m về phía hạ lưu sông Đà, nơi đây được thiết kế thi công như một hình tháp có 6 cánh vươn rộng, kết cấu bên trong mô phỏng biểu tượng của tua bin tổ máy, các hạng mục chi tiết được bố cục hài hoà. Tấm bia chính trang trọng khắc 6 chữ “Tổ quốc ghi công các anh”. Bên trong, 168 tấm bia nhỏ quây đúng thành một vòng tròn đặt vừa vặn dưới chân ngọn tháp, ghi danh 168 cán bộ, công nhân, viên chức đã ngã xuống trong quá trình xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình. Khi công trình thế kỷ chính thức biến dòng nước sông Đà thành dòng điện quốc gia cũng là khi đài tưởng niệm được dựng lên với 168 bát hương tưởng nhớ 168 người đã ngã xuống. Họ hầu hết đều còn rất trẻ. Xương máu của họ đã góp phần dựng nên một công trình vĩ đại. Sự hy sinh của họ đã góp phần viết nên một bản tráng ca thể hiện tinh thần “dời non, lấp biển” của một thế hệ lao động anh hùng. Tinh thần đó chính là niềm tự hào bất diệt để “dòng sông ánh sáng” mãi âm vang trong lòng các thế hệ mai sau.

 

                                                                        Thu Trang

 

Các tin khác


Người chiến sỹ quân y và khúc hát bi tráng giữa khói lửa Điện Biên Phủ

Sinh năm 1932, năm nay cựu chiến binh (CCB) Vũ Trọng Thuận ở tổ 3, phường Thống Nhất (TP Hòa Bình) đã ngoài 90 tuổi, nhưng khi kể về một thời binh lửa nơi chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa, giọng ông vẫn sang sảng. Thời điểm đó ông tham gia với vai trò là chiến sỹ quân y của trạm thu dung điều trị thương binh dưới tán rừng Mường Phăng. 70 năm đã trôi qua, ký ức thời thanh niên của người cựu binh như ùa về khi hoa ban nở trắng những cánh rừng Tây Bắc.

Vẹn nguyên ký ức về trận chiến Đồi A1

Sinh năm 1934, năm nay dù đã 90 tuổi nhưng khi kể lại những ngày cùng đồng đội tấn công Đồi A1 ở chiến dịch Điện Biên Phủ cách đây tròn 70 năm, đôi mắt của cựu chiến binh (CCB) Mai Đại Xá ở tổ 7, phường Đồng Tiến (TP Hòa Bình) như có lửa, giọng nói trở lên mạnh mẽ như thuở 20 tay cầm súng, bật dậy từ chiến hào hô xung phong...

Hồi ức về trận chiến đồi Độc Lập tại Điện Biên Phủ

LTS: Thiếu tướng Bùi Đức Tùng, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là Trung đội trưởng thuộc Đại đội 924, Tiểu đoàn 542, Trung đoàn 165, Đại đoàn 312. Thiếu tướng Bùi Đức Tùng đã kể lại những kỷ niệm tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ trong cuốn sách "Chiến sĩ Điện Biên Phủ thành phố Vinh” do Ban liên lạc chiến sĩ Điện Biên Phủ thành phố Vinh biên soạn. Báo Quân đội nhân dân Điện tử trích gửi đến bạn đọc.

Chuyện về người phụ nữ sống một mình không điện trong rừng

Cách đường tỉnh 435 gần 3km ở xóm Lòn, xã Bình Thanh, huyện Cao Phong là một căn nhà sàn cũ. Đó là căn nhà của bà Đinh Thị Thảo năm nay 63 tuổi, bà ở một mình. Nhiều năm nay bà Thảo sống trong cảnh không có điện, không ti vi với niềm đam mê trồng rừng và giữ rừng.

Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo

Những năm qua, cùng với triển khai các giải pháp nhằm tạo sinh kế cho người nghèo vươn lên, việc xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, cận nghèo cũng luôn được tỉnh quan tâm thực hiện. Ngoài đề án, chương trình hỗ trợ nhà ở, các cấp, ngành đã tăng cường huy động nguồn lực để hỗ trợ sửa chữa, xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, hoàn cảnh khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, tạo động lực để các hộ vươn lên thoát nghèo.

Người "hóa rồng" cho tre Hòa Bình

Từ một cây tre ngà bình thường, ông Nguyễn Văn Nam ở xã Yên Trị, huyện Yên Thủy đã biến thành "rồng tre”, thể hiện tinh thần đoàn kết với mong muốn Việt Nam muốn làm bạn với các nước trên thế giới. Những tác phẩm của ông đã được nhiều nước biết đến.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục