Người dân Mường Bi tổ chức Lễ hội khai hạ hàng năm để tỏ lòng tôn kính đối với những người đã có công lập đất, lập mường
Phần I: Chuyện lập đất, lập Mường
(HBĐT) - Chiều buông dần trên trên con đường làng. Ánh nắng nhàn nhạt sau rặng tre. Đây đó vương vấn làn khói mảnh mai từ những đụn rơm sau mùa gặt. Tiếng mõ trâu lách cách về chuồng... Đó là những cảm nhận đầu tiên của chúng tôi khi đặt chân đến xóm Lầm, xã Phong Phú, huyện Tân Lạc.
Trở lại xóm Lầm lần này, chúng tôi có mong muốn được tìm hiểu nhiều hơn về cuộc sống của những người dân ở vùng đất cổ của người Mường – Nơi được coi là một trong những cái nôi của người Mường, làng Mường và văn hóa Mường Hòa Bình.
Để bắt đầu câu chuyện, chúng tôi tìm đến nhà ông Bùi Văn Ểu - một già làng, một người hiểu khá rõ về vùng đất này cũng như những phong tục tập quán, những câu chuyện về vùng đất cổ Mường Bi. Sau khi rót nước mời khách, ông Ểu giục vợ, con chuẩn bị bữa tối.
Người Mường ở Hòa Bình rất hiếu khách. Mỗi khi có khách quý đến nhà chơi là họ phải mời bằng được khách ở lại dùng cơm. Người Mường thường có câu: “Trâu ra đồng ăn cỏ, khách đến nhà ăn cơm”. Và họ coi đó lẽ đương nhiên trong sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hàng ngày.
Bữa cơm nhanh chóng được dọn ra. Trên mâm cơm có đủ các món thịt lợn luộc, cá rán, rau đồ, măng luộc… Ông Ểu bảo: Tất cả thực phẩm đều có sẵn trong nhà, do gia đình tự làm ra và thu hái được từ thiên nhiên.
Ở Hòa Bình có bốn vùng Mường lớn là: Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng và Mường Động. Không phải ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh như ngày nay. Và đương nhiên trước đây, người Mường cũng không dùng danh từ này làm tên gọi cho dân tộc mình. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đức Từ Chi, Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của đồng bào bao gồm nhiều làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự cai quản của một nhà Lang. Từ đó được phân thành bốn vùng Mường lớn là: Nhất Bi, nhì Vang, Tam Thàng, Tứ Động.
Từ “Mường” vốn là từ “mương” đồng bào dùng để chỉ nơi cư trú chứ không liên quan gì đến tộc danh ngày nay của mình. Mặc dù vậy, cùng sự biến động của lịch sử cũng như quá trình giao lưu kinh tế, văn hoá với các dân tộc anh em khác, cho đến nay, “Mường” đã được đồng bào chấp nhận và coi đó là tộc danh của mình, và hiển nhiên, họ tự nhận mình là người Mường như ngày nay. Do đó, Mường đã trở thành tên gọi chính thức và duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân tộc khác.
Nói về việc hình thành người Mường và bản Mường, ông Ểu kể cho chúng tôi nghe truyền thuyết về “Đẻ đất, đẻ nước”. Do người Mường không có chữ viết riêng nên các câu chuyện đều tồn tại thông qua việc truyền miệng, từ đời này qua đời khác, người già kể cho con cháu nghe và cứ thế lưu truyền cho đến nay. Truyền thuyết kể lại rằng: Thuở xưa, khi con người chưa xuất hiện, trời làm hạn hán, cây cối khô mà chết, rồi trời lại mưa. Một trận mưa to chưa từng thấy. Nước chảy thành suối, thành sông. Đất lở bồi thành đồng bằng. Đá lăn chất đầy thành gò, thành đống, thành đồi, thành núi. Từ dưới đất mọc lên một cây si (tiếng Mường gọi là cây Pi). Cây si lớn như thổi trở thành to lớn, cành lá che kín cả bầu trời. Cây si bị sâu đục ăn làm cho gãy cành rụng lá. Từ gốc cây si đẻ ra một đôi chim. Chim Ây là đực, Chim Ứa là cái. Đôi chim rủ nhau bay lên cành cây si làm tổ. Cành si gãy. Chim bay lên cây đa làm tổ. Cây đa đổ. Chim Ây và Ứa lại rủ nhau bay lên núi đá lấy cỏ làm thành tổ Hang Hao. Chim Ứa đẻ ra trăm ngàn quả trứng. Trứng chim nở ra thành muôn loài muôn vật. Còn lại một trăm cái trứng thì nở ra con người. Đó là người Mường và người Kinh. Nhớ ơn cây si, người Mường đã đặt cho vùng đất này là Mường Pi. Về sau người ta gọi trệch ra thành Mường Bi.
Hàng năm, cứ sau dịp đầu xuân, sau Tết nguyên đán, người Mường Bi lại tổ chức Lễ hội khai hạ. Lễ hội là dịp để người dân Mường tỏ lòng tôn kính với các vị thần linh; là nơi để con người cầu mong cho xóm làng yên vui, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi phát triển; là nơi gặp gỡ, giao lưu, gạt bỏ những lo toan, vất vả trong cuộc sống thường nhật, để thắt chặt thêm tình đoàn kết cộng đồng. Có lẽ điều quan trọng hơn cả là trong Lễ hội, mọi người cùng nhau viết tiếp câu chuyện của vùng đất cổ Mường Bi.
Đêm xuống, vùng đất Mường Bi trở nên thanh bình như cuộc sống thường nhật vốn có của nó. Ánh trăng dìu dịu quạt mát giấc ngủ của những người dân chất phác. Và câu chuyện người Mường Bi lập đất, lập làng mà ông Ểu kể cho nghe cũng đã theo chúng tôi vào giấc mơ đầy sắc màu huyền thoại.
> Phần II: Một ngày ở đất cổ Mường Bi
Ngọc Vinh
(HBĐT) - Từ một xã nhiều năm đứng cuối cùng trong bảng xếp loại thi đua, nội bộ mất đoàn kết, lúng túng trong lãnh đạo chỉ đạo, nhân dân thiếu lòng tin vào tổ chức Đảng, xã Bắc Sơn đã vươn lên thành một điểm sáng, liên tục dẫn đầu trong phong trào thi đua yêu nước của huyện Kim Bôi.
(HBĐT) - Mùa thu cách đây 65 năm, tại quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Mùa thu ấy, quân và dân Hòa Bình cũng vùng đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Lần giở những trang hồi ký và gặp gỡ những lão thành cách mạng mới thấy thời khắc đó thật thiêng liêng.
(HBĐT) - Một ngày đầu tháng Tám lịch sử, chúng tôi có dịp đến thăm Khu di tích lịch sử cách mạng Thạch Yên - Cao Phong. Bên ấm trà xanh vừa mới hái trong vườn mời khách, ông Bùi Văn Hiện, người trông coi Khu di tích kể cho chúng tôi nghe về khu căn cứ cách mạng và những đổi thay trên quê hương ông.
(HBĐT) - Hơn 4 năm chiến đấu tại mặt trận miền Tây Nam Bộ, 3 lần bị thương vào chân, cột sống, đầu với thương tật 65%, nhưng thương binh Nguyễn Văn Tún ở xóm Dụ, xã Mông Hóa (Kỳ Sơn) đã vươn lên làm giàu chính đáng đạt thu nhập 110 triệu đồng/năm. “Có được thành quả đó là do lúc nào tôi cũng thấm nhuần lời căn dặn của Bác Hồ - thương binh tàn nhưng không phế.” – ông Tún tâm sự.
(HBĐT) - Không rõ tại sao người Pháp lại dùng cụm từ sông Đen để chỉ sông Đà. Nhưng đó cũng không phải là điều quan trọng. Bởi có gọi như thế nào thì sông Đà vẫn là một dòng sông kỳ vĩ, mạnh mẽ và tràn đầy sinh lực như một dũng sỹ giữa núi rừng miền Tây Bắc hoang sơ và bí ẩn.
(HBĐT) - Qua cuộc trao đổi học tập kinh nghiệm hoạt động của BCH Hội Nhà Báo tỉnh ta với Hội Nhà Báo Hải Phòng mà chúng tôi được hiểu thêm về một địa danh mà tiếng tăm đã vượt qua biên giới quốc gia: Cảng quân sự bí mật K15- nơi xuất phát của những con “Tàu không số” thời chống Mỹ.