Chiêng cổ được trưng bày trang trọng trong ngôi nhà sàn đậm đà bản sắc dân tộc của ông Bùi Thanh Bình.

Chiêng cổ được trưng bày trang trọng trong ngôi nhà sàn đậm đà bản sắc dân tộc của ông Bùi Thanh Bình.

(HBĐT) - Một chiếc chiêng có đến 4 âm với các âm độ cao thấp khác nhau, chính vì vậy, chỉ cần dùng một chiếc chiêng này thôi người nghệ nhân đã có thể chơi được tiết tấu đơn giản của một làn điệu xéc bùa. Theo tiến sỹ Quách Văn Ạch - nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh, nguyên Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL, “ở Hoà Bình, đây có thể xem là chiếc chiêng độc đáo có một không hai”.

 

Chiếc chiêng này đang được trưng bày tại Bảo tàng tỉnh với cái tên “Chiêng đồng 4 âm” và những dòng giới thiệu: “Vào ngày 27/12/1996, gia đình ông Bùi Văn Trìn đã phát hiện được chiêng trong khi làm vườn tại xóm Cảng, xã Bình Cảng (Lạc Sơn). Đây là chiếc chiêng đặc biệt, khi sử dụng có bốn âm, một âm ở chính giữa, ba âm khác nằm ở thành xung quanh được bố trí cách nhau tạo nên một tam giác cân. Các âm này có độ cao khác nhau, có thể dùng để chơi những tiết tấu đơn giản của một làn điệu xéc bùa của người Mường”.

 

Hồ sơ hiện vật của chiêng cũng chỉ có như vậy. Ngay cả cán bộ thuyết minh của Bảo tàng tỉnh - người đã làm việc ở đây từ năm 2004 đến nay cũng không biết thêm những thông tin nào khác xung quanh “chiếc chiêng đặc biệt” này. Chị nuối tiếc xác nhận điều đó và giải thích: Bảo tàng đã làm tốt việc lưu giữ, bảo quản và trưng bày hiện vật. Còn việc nghiên cứu thấu đáo những giá trị của hiện vật - nhất là những giá trị phi vật thể của một văn vật quý giá như chiếc chiêng cổ này thì vượt quá chức năng, nhiệm vụ của Bảo tàng. Đây là việc làm đòi hỏi nhiều công phu với sự đầu tư lớn về tiền của, công sức và trí tuệ.

 

Theo gợi ý của người cán bộ bảo tàng đầy tâm huyết nhưng lực bất tòng tâm, tôi tìm đến những trang nghiên cứu của nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Bùi Chỉ và tiến sỹ văn hoá Quách Văn Ạch. Cả hai nhà nghiên cứu này đều khẳng định giá trị độc đáo của “Chiêng đồng 4 âm”. Trong đó, tiến sỹ Quách Văn ạch viết: “Về hình dáng, chiếc chiêng cổ này trên bề mặt đã phân thành 2 lớp, lớp trong tính từ tâm ra đến 2/3 bề mặt nổi cao so với thành ngoài, u chính giữa nổi rõ tạo thành núm chiêng. Về kỹ thuật, chiêng được đúc bằng hợp kim đồng thau, có pha thêm kim loại quý ở phần núm, toàn bộ chiêng có độ dày như nhau, khoảng 1,5 - 2 mm. Đặc biệt, khi đánh chiêng có 4 âm với các âm độ cao thấp khác nhau, nằm ở 4 vị trí trên mặt chiêng: ở u chính giữa là âm son, còn 3 âm khác nằm ở 3 vị trí trên bề mặt chiêng tạo thành một tam giác đều, gần sát với thành ngoài. Với 4 nốt âm cao thấp khác nhau, chiêng có thể tấu được những bài đơn giản. Người Mường ở Lạc Sơn gọi đây là “lêệng” (lệnh), chứ không gọi là chiêng. Ở Hoà Bình, đây có thể xem là chiếc chiêng độc đáo có một không hai.

 

       

       Chiêng Mường được tôn vinh trong chính cộng đồng sản sinh ra nó.

 

Cũng theo tiến sỹ Quách Văn Ạch, việc phát hiện những chiếc chiêng quý đã góp thêm tư liệu để tìm hiểu về nguồn gốc của cồng chiêng ở Hoà Bình nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Với hình ảnh người ngồi đánh chiêng trên mặt trống đồng Đông Sơn cho thấy chí ít thì chiêng đã cùng tồn tại với trống đồng Đông Sơn cách đây trên 2.000 năm, nhưng thời điểm ra đời của chiêng cụ thể thế nào thì đến nay vẫn còn là ẩn số.   

     

Quay lại với chiếc chiêng đồng 4 âm đang được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng tỉnh. “Sự độc đáo của nó là không thể phủ nhận” - ông Bùi Thanh Bình (phường Thái Bình, thành phố Hoà Bình) quả quyết nhấn mạnh. Ông là một trong số ít những người con Hoà Bình đã yêu chiêng Mường đến độ quên ăn, quên ngủ, để rồi mải miết đi tìm về hàng trăm chiếc chiêng tạo thành một bảo tàng chiêng hết sức sống động trong chính ngôi nhà của mình. Ông đã từng được đánh thử chiếc chiêng đồng 4 âm. Với tình yêu và vốn hiểu biết sâu sắc về chiêng, ông cho rằng giá trị độc đáo của chiếc chiêng này không gì có thể phủ nhận.

 

Ông Bùi Thanh Bình giải thích: Một bộ chiêng của người Mường gồm 12 chiếc to, nhỏ khác nhau. Mỗi chiếc chiêng đánh ra một âm tạo thành sự giao thoa của 12 âm sắc, tượng trưng cho 12 tháng của năm. Một năm là sự giao thoa của bốn mùa thời tiết, vì vậy, một bộ chiêng nếu không đầy đủ thì ít nhất phải có từ bốn chiếc trở lên mới có thể tấu được những bài đơn giản như: “Bính bính binh, bính bính khầm. Binh bính khầm, bính binh bính khầm…”. Chính vì vậy, một chiếc chiêng mà đánh được ra 4 âm với âm độ cao thấp khác nhau, có thể sử dụng để chơi được những tiết tấu của một làn điệu xéc bùa thì đó thực sự là một chiếc chiêng đặc biệt, một chiếc chiêng độc đáo có một không hai cần được gìn giữ và phát huy giá trị trong chính cộng đồng sản sinh ra nó.

 

Trao đổi thêm về những điều bí ẩn và thú vị xung quanh chiếc chiêng của người Mường, ông Bình trầm giọng kể: Trong mỗi gia đình Mường trước đây, hầu như nhà nào cũng có vài ba chiếc chiêng. Mặc dù giá trị vật chất của chiêng không hề rẻ, để có nó gia chủ phải đổi bằng nhiều con trâu, nhưng bù lại là giá trị tinh thần to lớn và âm thanh vang vọng vô song của nó. Đối với người Mường, chiêng không phải là nhạc cụ đơn thuần mà là linh hồn của văn hóa, là vật thiêng của trời đất ban tặng. Tiếng chiêng vang vọng ba tầng trời, vang đến tận đất Mường ma. Tiếng chiêng thông linh, gọi tổ gọi tiên, rằng: “Nghe tiếng chiêng này, ban ngày biết đường ăn đường uống, ban đêm biết đường xuống đường lên”. Người Mường đã ngấm âm thanh ấy từ trong bụng mẹ. Khi ra đời, tiếng chiêng báo tin vui. Khi về với đất, tiếng chiêng dẫn đường đưa lối. Người Mường quan niệm mỗi chiếc chiêng đều có thần, có hồn, do vậy không thể sử dụng một cách tuỳ tiện. Ví dụ, khi không sử dụng thì chiêng được treo cao ở vị trí trang trọng. Nếu chiêng cho mượn, trước khi trao tay người ta đánh một tiếng chiêng trong nhà, vừa để kính báo vừa để xác định chất lượng âm thanh của chiêng. Đến khi mang trả, người mượn phải sắm phần quà xôi thịt cho chiêng và cũng phải đánh lại một tiếng để khẳng định với chủ của nó là chiêng vẫn nguyên lành. Do quan niệm “chiêng có thần” nên trước đây, nhiều nhà còn rắc gạo lên mặt chiêng trong dịp Tết.

           

 

 

 

                                                                         Thu Trang

 

 

Các tin khác


“Xe đạp thồ” - Huyền thoại trong chiến thắng Điện Biên Phủ

Đến thăm Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chúng tôi được chị Ngô Thị Lai, cán bộ Bảo tàng giới thiệu tham quan, tìm hiểu khá nhiều hiện vật quan trọng, độc đáo, góp phần làm nên chiến thắng lừng lẫy năm châu 70 năm về trước. Một trong những hiện vật ấy là chiếc xe đạp thồ huyền thoại.

Ký ức về "mùa hè đỏ lửa" Thành cổ Quảng Trị năm 1972

Cho đến nay, sau 52 năm, trận chiến khốc liệt nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, được mệnh danh là "mùa hè đỏ lửa” với sự huy động lực lượng lớn chưa từng có trong 81 ngày đêm giằng co từng mét đất, ngôi nhà giữa bom rơi, đạn nổ vẫn còn in đậm trong ký ức quân và dân cả nước cũng như lớp thanh niên tỉnh Hòa Bình lên đường đến với chiến trường Quảng Trị, góp phần tô thắm trang sử hào hùng của dân tộc trong hành trình giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Bảo tồn giá trị văn hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Trong bối cảnh hiện nay, việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng miền, dân tộc là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa góp phần củng cố nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết, khơi dậy khát vọng phát triển, vừa quảng bá du lịch, thúc đẩy phát triển KT-XH.

Người chiến sỹ quân y và khúc hát bi tráng giữa khói lửa Điện Biên Phủ

Sinh năm 1932, năm nay cựu chiến binh (CCB) Vũ Trọng Thuận ở tổ 3, phường Thống Nhất (TP Hòa Bình) đã ngoài 90 tuổi, nhưng khi kể về một thời binh lửa nơi chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa, giọng ông vẫn sang sảng. Thời điểm đó ông tham gia với vai trò là chiến sỹ quân y của trạm thu dung điều trị thương binh dưới tán rừng Mường Phăng. 70 năm đã trôi qua, ký ức thời thanh niên của người cựu binh như ùa về khi hoa ban nở trắng những cánh rừng Tây Bắc.

Vẹn nguyên ký ức về trận chiến Đồi A1

Sinh năm 1934, năm nay dù đã 90 tuổi nhưng khi kể lại những ngày cùng đồng đội tấn công Đồi A1 ở chiến dịch Điện Biên Phủ cách đây tròn 70 năm, đôi mắt của cựu chiến binh (CCB) Mai Đại Xá ở tổ 7, phường Đồng Tiến (TP Hòa Bình) như có lửa, giọng nói trở lên mạnh mẽ như thuở 20 tay cầm súng, bật dậy từ chiến hào hô xung phong...

Hồi ức về trận chiến đồi Độc Lập tại Điện Biên Phủ

LTS: Thiếu tướng Bùi Đức Tùng, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là Trung đội trưởng thuộc Đại đội 924, Tiểu đoàn 542, Trung đoàn 165, Đại đoàn 312. Thiếu tướng Bùi Đức Tùng đã kể lại những kỷ niệm tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ trong cuốn sách "Chiến sĩ Điện Biên Phủ thành phố Vinh” do Ban liên lạc chiến sĩ Điện Biên Phủ thành phố Vinh biên soạn. Báo Quân đội nhân dân Điện tử trích gửi đến bạn đọc.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục