Tương truyền 2 cây đại thụ được trồng cạnh ngôi chùa Quèng Ang, xã Tân Phong ( Cao Phong) vẫn còn lại cho đến ngày nay là do chính tay vị công chúa xấu số trồng.

Tương truyền 2 cây đại thụ được trồng cạnh ngôi chùa Quèng Ang, xã Tân Phong ( Cao Phong) vẫn còn lại cho đến ngày nay là do chính tay vị công chúa xấu số trồng.

(HBĐT) - Theo các tài liệu, những câu chuyện kể và truyền thuyết trong dân gian có đến 2 nàng công chúa được gả về làm dâu xứ Mường. Hai nàng công chúa, hai mối duyên tình, hai số phận khác nhau. Người đã đi hết con đường tình với người mình yêu, người dang dở trong sự tiếc nuối... Trải qua biết bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, câu chuyện về 2 nàng công chúa được gả về làm dâu xứ Mường không phải ai cũng biết.

 

Duyên tình nghìn năm còn mãi nghĩa vợ tình chồng

 

Về đình Xàm, xã Phú Lai (Yên Thủy), ấn tượng nhất đối với tôi là câu chuyện về một di sản văn hóa quý hiếm của đồng chí Bùi Trung Kiên, Chủ tịch UBND huyện Yên Thủy ở vùng đất Mường cổ này. Theo đồng chí Chủ tịch UBND huyện thì đình được xây dựng vào năm Thiệu Trị thứ 5 (1845). Đình thờ thành hoàng là nhân thần, người địa phương tên tục là Bùi Văn Khú (Đô Khú) cùng vợ là Thiên Tinh công chúa. Hiện đình Xàm còn lưu giữ được 11 bản sắc phong bắt đầu từ thời Lê Cảnh Hưng thứ 14 (thế kỷ XVIII) cho đến năm Khải Định thứ 9 (đầu thế kỷ XX). Bên cạnh những di sản văn hóa, những bản sắc phong còn hiện hữu, ở đình Xàm còn lưu truyền một mối duyên tình đẹp giữa nàng công chúa nhà Lê và người anh hùng của dân tộc Mường có công hộ quốc cứu dân.  

 

       

Đình Xàm, xóm Xàm, xã Phú Lai ( Yên Thuỷ) là nơi nhân dân thờ phụng hai vợ chồng Đô Khú Đại Vương và Thiên Tinh công chúa.

 

 

Theo các tài liệu Hán - Nôm còn ghi và được các cụ cao niên trong vùng kể lại thì ông Bùi Văn Khú sinh vào đầu thế kỷ XVIII, ở xóm Xàm, xã Phú Lai. Ngay từ lúc còn nhỏ đã có tư chất thông minh lại tinh thông võ nghệ. Lớn lên gặp lúc vận nước nguy nan, chàng trai Bùi Văn Khú đã từ biệt mẹ già, từ biệt quê hương về kinh đô tham gia quân đội. Trong chiến đấu, ông đã lập được nhiều công lớn. Khi đất nước bình yên, ghi nhận những công lao, vua đã ban áo gấm, vàng, bạc và gả công chúa cho ông, phong tước lộc, làm quan tại triều đình. Cho đến khi tuổi cao, sức yếu, năm 1782, ông xin từ quan, cùng công chúa Thiên Tinh về quê sinh sống. Đồng ý với ước nguyện đó, nhà vua đã cắt đất cho vợ chồng ông cai quản một vùng Mường thuộc 3 xóm Xàm, Đình, Rò thuộc xã Phú Lai ngày nay và tặng chiếc trống đồng để làm hiệu lệnh. Trước khi mất, ông đã chôn chiếc trống đồng vào một nơi bí mật. Mãi cho đến năm 1998, một gia đình ở xóm Xàm khi đào đất làm móng nhà đã vô tình tìm thấy chiếc trống.

 

Khi ông Bùi Văn Khú và Thiên Tinh công chúa qua đời đã được nhân dân chôn cất tại khu vực gò Mè, thuộc xóm Xàm (xã Phú Lai). Hiện hai ngôi mộ này vẫn còn, nhân dân quanh vùng vẫn thường lui tới hương khói. Để tưởng nhớ công trạng của ông với quê hương đất nước, nhân dân đã lập đình  để thờ phụng. Hai vợ chồng đã trở thành thành hoàng của cả vùng được nhà vua ban lá cờ thêu 8 chữ sắc phong “Đô Khú Đại vương Thượng đẳng tối linh”. Tiếp sau các triều đại phong kiến cũng đều ban sắc phong. Tính ra từ thời Lê Cảnh Hưng năm thứ 14 (1784) đến năm Khải Định thứ 9, ông bà đã được ban tới 11 đạo sắc phong. Sắc đầu tiên là sắc phong năm Cảnh Hưng thứ 14, ngày 26/7/1784. Hai sắc cuối cùng vào năm Khải Định thứ 9 ngày 25/7/1925 đã  ban bảo chiếu sắc cho Đô Khú Đại vương là “Bảo an chính trực hựu thiện đôn ngưng Dực Bảo trung hưng Đô Khú thành hoàng tôn thần”; ban cho công chúa Thiên Tinh mỹ tự “Dực Bảo trung hưng Thiên tinh công chúa tôn thần”. Tặng thêm “Trai tĩnh trung đẳng thần”.

 

 

Chuyện tình vị tù trưởng và nàng công chúa ở vườn hoa, núi cối

 

Trong những lần trò chuyện với chị Nguyễn Thị Thi, Giám đốc Bảo tàng tỉnh, chúng tôi đã được nghe kể về một câu chuyện tình đẹp nhưng lại có cái kết đầy bi thảm của một nàng công chúa được gả về làm dâu đất Mường Thàng. Theo chị Thi, trong những dịp về điều tra lễ hội cổ truyền chùa Quèn Ang (xã Tân Phong - Cao Phong) đã được các cụ cao niên trong vùng kể cho nghe một truyền thuyết về nàng công chúa được gả cho vị tù trưởng vùng đất Cao Phong. Chuyện kể rằng: Vào thời kỳ phong kiến, Hòa Bình vẫn là miền đất hoang sơ, cách biệt chốn kinh kỳ và vùng đồng bằng. Giao thông, đi lại chủ yếu theo những dòng sông hoặc những con đường mòn ngoằn ngoèo xuyên qua những cánh rừng già thâm u đầy rắn độc và thú dữ. Với điều kiện xa xôi, cách trở như vậy, vùng đất Hòa Bình được xem như thủ phủ, thành trì bất khả xâm phạm của những vị tù trưởng đầy quyền uy.

 

Khi đó, vùng đất Mường Thàng cũng không là ngoại lệ với vị tù trưởng giàu có, uy quyền. Đất của vị tù trưởng lúc đó rộng lớn đến mức “chim bay mỏi cánh, hoẵng chạy chồn chân”, thóc, lúa đủ để nuôi cả nghìn người ăn không hết. Đến giai đoạn cuối của nhà Hậu Lê, tình hình kinh tế, chính trị trong nước có nhiều biến động. Tù trưởng các dân tộc thiểu số ở một số vùng miền núi nổi dậy, cát cứ. Trước tình hình đó, buộc vua Lê phải nghĩ cách lấy lòng vị tù trưởng ở vùng đất Mường Thàng để giữ yên bờ cõi. Theo đó, đã có một nàng công chúa được gả cho vị tù trưởng này. “Điều đáng tiếc nhất là người Mường không có chữ viết nên sự kiện này đã không được ghi lại”, chị Thi nuối tiếc. Cũng chính vì không có sử sách nào ghi lại sự kiện này nên trải qua hàng trăm năm, chẳng ai còn nhớ tên nàng công chúa đó là gì, ngày, tháng, năm nào được gả về vùng đất Mường Thàng làm vợ vị chúa đất quyền uy kia. Cũng chẳng ai còn nhớ vị tù trưởng đó tên là gì. Chỉ còn lại những câu chuyện truyền thuyết trong nhân dân được chắp vá lại và những địa danh liên quan đến công chúa được truyền lại cho tới ngày nay như chùa Quèn Ang, vườn hoa núi Cối và khu mộ cổ Dũng Phong.

 

Theo truyền thuyết, sau khi từ giã chốn kinh kỳ hoa lệ, nàng công chúa theo chồng về làm dâu ở đất Mường Thàng chỉ với 12 thị nữ. Xa chốn kinh kỳ, cuộc sống buồn bã của công chúa cứ thế lặng lẽ trôi. Nỗi buồn đó đã thấu đến tai vua và ngôi chùa Quèn Ang được xây dựng với lối kiến trúc giống với những ngôi chùa nơi kinh kỳ ở trung tâm của đất Mường Thàng (xóm Trang Trên - xã Tân Phong ngày nay) là món quà của vua cha tặng cho người con gái đi làm dâu xa xứ để ngày ngày nàng gửi tâm vào cõi phật. Tương truyền, 2 cây đại cổ thụ được trồng bên cạnh ngôi chùa vẫn còn lại cho đến ngày nay chính là do công chúa trồng. Với vị tù trưởng quyền uy, công chúa luôn là một người vợ yêu hiền thục. Thấy nàng buồn, vị tù trưởng đã cho trồng một vườn hoa với đủ loại hoa thơm, cỏ lạ dưới chân núi Cối để cho nàng thưởng ngoạn, vơi đi nỗi buồn xa xứ. Hàng trăm năm đã trôi qua, vườn hoa không còn nữa, nhưng theo những người dân ở Tân Phong trên đỉnh núi Cối vẫn còn một khoảnh đất bằng phẳng. Điều kỳ lạ là khu đất đó chẳng có loại cây nào mọc ngoài thảm cỏ may xanh mượt.

 

Tưởng đâu cuộc sống của nàng công chúa nơi rừng xa cứ êm đềm trôi trong sự nâng niu, chiều chuộng của vị tù trưởng uy quyền. Trong một bữa tiệc, khi rượu đã mềm say, nghi vợ yêu có mối gian tình, vị chúa đất đã rút gươm chém oan vợ mình. Tỉnh rượu, quá thương tiếc vợ, vị tù trưởng đã cho làm lễ an táng đặc biệt. Theo truyền thuyết trong dân gian thì công chúa được tù trưởng an táng ở khu thánh địa rộng tới vài chục ha giữa những rừng đá cao thấp.

 

Câu chuyện về nàng công chúa được gả cho vị chúa đất Mường Thàng đã bị lãng quên qua nhiều đời, cũng chẳng mấy ai biết để kể lại cho con cháu tường tận. Chỉ đến khi rộ lên phong trào đào trộm khu mộ cổ của người dân vào những năm 1975 - 1980, người ta tìm lại được những dấu tích vật tùy táng trong mộ của những gia đình đại quyền quý, của những người có xuất thân vương giả, câu chuyện về nàng công chúa kia mới được những người già trong vùng góp nhặt, kể lại trong những đêm đông dài, rét buốt bên ánh lửa bập bùng nơi góc bếp nhà sàn.

 

Do bị đào phá trộm nên ngôi mộ công chúa cũng vì thế mà thất lạc, không còn lại dấu vết. Có chăng, các nhà khảo cổ cũng chỉ tìm được 12 bông hoa bằng vàng vốn là vật thường được đính trên mũ áo của những người có xuất thân quyền quý từ triều đình trong một ngôi mộ cổ còn sót lại. Phải chăng đó chính là ngôi mộ công chúa?! Câu trả lời từ đó đến nay chẳng có ai giải đáp được.

 

 

 

                                                                          Mạnh Hùng

 

Các tin khác


“Xe đạp thồ” - Huyền thoại trong chiến thắng Điện Biên Phủ

Đến thăm Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chúng tôi được chị Ngô Thị Lai, cán bộ Bảo tàng giới thiệu tham quan, tìm hiểu khá nhiều hiện vật quan trọng, độc đáo, góp phần làm nên chiến thắng lừng lẫy năm châu 70 năm về trước. Một trong những hiện vật ấy là chiếc xe đạp thồ huyền thoại.

Ký ức về "mùa hè đỏ lửa" Thành cổ Quảng Trị năm 1972

Cho đến nay, sau 52 năm, trận chiến khốc liệt nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, được mệnh danh là "mùa hè đỏ lửa” với sự huy động lực lượng lớn chưa từng có trong 81 ngày đêm giằng co từng mét đất, ngôi nhà giữa bom rơi, đạn nổ vẫn còn in đậm trong ký ức quân và dân cả nước cũng như lớp thanh niên tỉnh Hòa Bình lên đường đến với chiến trường Quảng Trị, góp phần tô thắm trang sử hào hùng của dân tộc trong hành trình giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Bảo tồn giá trị văn hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Trong bối cảnh hiện nay, việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng miền, dân tộc là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa góp phần củng cố nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết, khơi dậy khát vọng phát triển, vừa quảng bá du lịch, thúc đẩy phát triển KT-XH.

Người chiến sỹ quân y và khúc hát bi tráng giữa khói lửa Điện Biên Phủ

Sinh năm 1932, năm nay cựu chiến binh (CCB) Vũ Trọng Thuận ở tổ 3, phường Thống Nhất (TP Hòa Bình) đã ngoài 90 tuổi, nhưng khi kể về một thời binh lửa nơi chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa, giọng ông vẫn sang sảng. Thời điểm đó ông tham gia với vai trò là chiến sỹ quân y của trạm thu dung điều trị thương binh dưới tán rừng Mường Phăng. 70 năm đã trôi qua, ký ức thời thanh niên của người cựu binh như ùa về khi hoa ban nở trắng những cánh rừng Tây Bắc.

Vẹn nguyên ký ức về trận chiến Đồi A1

Sinh năm 1934, năm nay dù đã 90 tuổi nhưng khi kể lại những ngày cùng đồng đội tấn công Đồi A1 ở chiến dịch Điện Biên Phủ cách đây tròn 70 năm, đôi mắt của cựu chiến binh (CCB) Mai Đại Xá ở tổ 7, phường Đồng Tiến (TP Hòa Bình) như có lửa, giọng nói trở lên mạnh mẽ như thuở 20 tay cầm súng, bật dậy từ chiến hào hô xung phong...

Hồi ức về trận chiến đồi Độc Lập tại Điện Biên Phủ

LTS: Thiếu tướng Bùi Đức Tùng, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là Trung đội trưởng thuộc Đại đội 924, Tiểu đoàn 542, Trung đoàn 165, Đại đoàn 312. Thiếu tướng Bùi Đức Tùng đã kể lại những kỷ niệm tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ trong cuốn sách "Chiến sĩ Điện Biên Phủ thành phố Vinh” do Ban liên lạc chiến sĩ Điện Biên Phủ thành phố Vinh biên soạn. Báo Quân đội nhân dân Điện tử trích gửi đến bạn đọc.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục