(HBĐT) - Có đến ba mươi năm rồi, hôm nay, anh Trung mới trở lại mảnh đất này. Mảnh đất mà ngày ấy, anh theo gia đình từ một tỉnh miền xuôi đất chật, người đông lên khai hoang. Học xong cấp II, anh ra tỉnh học, anh ở nhà người anh họ bên này sông, phố Đoàn Kết.
Hàng ngày, anh cùng lũ bạn trai, gái bên bờ phải sang bờ trái học trường cấp 3. Lúc ấy, cả tỉnh mới có một, hai trường cấp 3. Trường nằm sát dưới chân núi Búng, một sân trường rộng dài cát trắng, ra khỏi sân đi một đoạn đường là xuống bờ sông. Những cây phi lao cao vút ngày hè, gió sông thổi lên, phi lao vi vu xen với tiếng ve sầu. Trường hồi đó mái tranh, vách đất những một thời đã ghi bao kỷ niệm của tuổi học trò.
Ngày ấy, tụi học trò con trai nghịch, cái nghịch được xếp sau quỷ và ma, nghịch của tuổi học trò lúc ấy là cái nghịch hồn nhiên của tuổi trẻ vô tư. Nhiều hôm, đò cập bến là bọn con trai nhảy lên bờ, “bùng” cả tiền đò. ông Đầy nhìn lũ học sinh chặc lưỡi, không nặng lời. ông bà Đầy chèo đò quanh năm lúc nắng nóng cũng như lúc mưa rét mà nuôi được lũ con 5 đứa nay đã có cô con gái đầu làm bác sĩ tận Hà Nội.
Đến thời cuộc kháng chiến miền
Chiều nay, anh Trung đứng thẫn thờ bên chiếc cầu xi măng bắc qua sông. Đứng trên cầu, tựa vào lan can, Trung nhìn dòng sông như dải lụa xanh vắt vẻo tận cuối trời, hút xa phía bên kia bờ bãi xóm làng nay đã trở thành những dãy phố, những ống khói nhà máy đường, nhà máy gạch, những cần cẩu bờ sông cẩu hàng máy móc lên cho thủy điện Sơn La. Trường học xưa nay tọa lạc giữa phố, mấy dãy nhà cao tầng của trường rộng mở đón con em các dân tộc về đây học tập để tạo nguồn cán bộ địa phương.
Đã ba mươi năm qua, bến đò Phương năm xưa đã nhường cho cây cầu lớn bắc qua sông nối đôi bờ, người qua lại tấp nập làm cho bộ mặt thành phố trẻ hai bờ sông thêm thơ mộng. Ba mươi năm về trước, cậu học trò mới rời ghế nhà trường, vóc dáng thanh mảnh lọt thỏm trong bộ quân phục rộng thùng thình. Những tháng luyện tập trên thao trường mồ hôi đổ, nắng cháy da, mưa dầm làm cho làn da trắng trẻo anh thư sinh Trung sạm nắng, rắn rỏi hẳn lên. Ngày ấy, rời ghế nhà trường cấp III tập luyện một thời gian, Trung và mấy bạn nữa được trung đoàn chọn đi học lái xe. Ngày chia tay, xóm Thịnh Lương, nơi anh đóng quân thật bịn rịn. Lan, cô con gái của bà mẹ chủ nhà cho tiểu đội anh ở suốt mấy tháng rèn luyện thao trường “lăn lê bò toài” để trở thành anh bộ đội. Thời chiến, cuộc sống người dân còn muôn vàn khó khăn thiếu thốn, bộ đội cũng trong cảnh cả nước bước vào cuộc chiến chống chiến tranh phá hoại và chi viện cho miền
Chia tay Lan bên bến đò anh hẹn:
- Có ngày lái xe về Thịnh Lương thăm mẹ, thăm em.
Trung nhớ ngày hành quân đi bộ lên đỉnh dốc Man thì đã quá trưa, mở mo cơm nếp mà Trung được Lan tặng, đám lính trẻ lại reo vang thấy bên cạnh gói muối vừng còn có chiếc đùi gà lớn. Chiến tranh kéo dài, Trung đã cầm vô lăng lái chiếc xe tải của Liên Xô viện trợ đi khắp nẻo đường Trường Sơn vào khu bốn, khu năm rồi đến Tây Nguyên. Bận rộn với những chuyến xe vào
Anh lại về xóm Thịnh Lương, mẹ Lan đã qua đời, em trai Lan làm Bí thư Đảng ủy phường Thịnh Long, mới đổi tên, còn Lan nay đã là cô giáo cấp hai dạy học ở một trường có tiếng của thành phố. Được tin anh Trung về thăm nhà, thăm quê hương xưa nghèo, Lan đến nhà em, cậu Luân. Cô giáo Lan chào anh rồi nói lời trách nhẹ:
- Tưởng anh Trung lâu ngày quên dân quê, quên xóm bờ sông này rồi. Trung nhìn Lan nói:
- ấy em nói vậy là oan cho anh, vì đi chiến đấu miệt mài với chiếc vô lăng nên chưa có dịp.
- Em nói vậy thôi, thời chiến biết thế nào, hôm nay anh trở lại gặp nhau là quý rồi.
Anh trở lại không phải qua đò mà đã có chiếc cầu.
Trung nói thêm:
- Có cầu rồi vẫn không quên tiếng gọi đò - đò ơi. Nhớ đò năm xưa là nhớ tình nghĩa với người, với đò. Qua cầu vẫn như tiếng đò ơi! Mênh mang da diết.