Đại tá Bùi Văn Minh theo dõi quá trình chăm sóc lợn thịt qua hệ thống mạng.
(HBĐT) - Từng là Phó Giám đốc, thủ trưởng cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh, sau khi nghỉ hưu, đại tá Bùi Văn Minh luôn trăn trở với công cuộc xây dựng NTM. Trong con người ông toát lên vẻ bình dị, khiêm nhường, khác xa với hình ảnh một người từng chỉ huy biết bao trận đánh trên mặt trận chống tội phạm. Trở về cuộc sống đời thường, vị đại tá công an ấy tiếp tục thành công trên trận chiến mới, xây dựng NTM ở quê hương.
Những ngày cuối năm 2014, chúng tôi tìm đến xã Hùng Tiến (Kim Bôi) thăm trang trại của đại tá Bùi Văn Minh. Quả đồi rộng chừng 5 ha từng trơ trọi, khô cằn là thế nay phủ màu xanh của rừng. Đại tá Minh kể cho chúng nghe về giai đoạn khó khăn. Thời điểm ông bắt đầu có ý tưởng phủ xanh đồi trọc, giúp hồi sinh mảnh đất cằn cỗi.
Ngày đó, quê hương ông còn nhiều khó khăn. Cuộc sống người dân chủ yếu dựa vào trồng trọt, chăn nuôi, kinh tế chậm phát triển. Mỗi lần về quê, ông trăn trở, suy nghĩ làm sao để quê hương thay đổi, làm sao để người nông dân có việc làm, có thể làm giàu bằng lao động chân chính. Tiềm năng đất đai, con người là rất lớn. Nhìn những quả đồi bỏ hoang, những cánh rừng úa tàn, ông đau lòng lắm. “Phải biến lợi thế đó phục vụ cho cuộc sống của mình” - ông tự nhủ. Việc đầu tiên là phải thay đổi nhận thức của nhân dân, đưa quy trình khoa học tiên tiến phục vụ sản xuất, thay đổi tư duy trong xây dựng NTM. Thế rồi, ông tự nghiên cứu cây giống, con giống phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu và năng lực con người quê ông.
Đầu những năm 2000, ông đứng ra mua lại quả đồi rộng khoảng 5 ha để bắt tay vào cải tạo đất làm trang trại.
Đánh giá toàn bộ quy trình từ lựa chọn cây, con giống, chế độ dinh dưỡng, cách ly dịch bệnh đến điều kiện môi trường, khí hậu, ông nhận thấy, cần đổi thay đổi phương thức quản lý, từ nhỏ lẻ sang tập trung, từ thô sơ, thủ công sang áp dụng KH-KT. Ông xuống các thôn, xóm tuyển dụng những người dân đưa đến các cơ sở đào tạo về chăn nuôi, thú y ở thị trấn Lương Sơn (Lương Sơn). Khi đã có kiến thức thực tế, ông đưa họ trở lại làm việc tại trang trại. Anh Bạch Tiến Tình, nhớ lại: “Sau khi tốt nghiệp THPT, tôi được ông Minh nhận vào làm. Sau khi đào tạo thực tế hơn 2 tháng, tôi được giao nhiệm vụ quản lý, giám sát từ lựa chọn con giống, thức ăn đến chăm sóc, theo dõi quá trình phát triển của lợn. Đến nay, tôi nắm vững kỹ thuật chăn nuôi lợn và ứng dụng thành thạo nhiều công nghệ mới vào chăn nuôi”. Hàng tháng, đoàn chuyên gia của Công ty TNHH CP Việt Nam (trụ sở tại thị trấn Xuân Mai, Hà Nội) thường kiểm tra, đánh giá hiệu quả chăn nuôi, tư vấn cho cơ sở sản xuất về thức ăn, xây dựng khu chuồng trại, kiểm soát chặt chẽ về dịch bệnh, cách ly, khử trùng dịch bệnh, vệ sinh môi trường... Nhờ đó, việc sản xuất dần ổn định, năng suất, chất lượng từng bước nâng cao.
Qua 4 năm hoạt động, cơ sở chăn nuôi của vị đại tá về hưu Bùi Văn Minh ngày càng mở rộng về quy mô và chất lượng. Tỷ lệ lợn thịt xuất ra thị trường năm sau cao hơn năm trước. Năm 2014 xuất 1.867 con lợn thịt với hơn 174 tấn. Tiền đầu tư trên 8 tỷ đồng, trừ phí, thu về khoảng 1,5 tỷ đồng. Ngoài ra, ông còn tạo việc làm cho 12 lao động trên địa bàn với thu nhập hàng tháng từ 4 - 6 triệu đồng/người. Đặc biệt, ông tiếp nhận 2 trường hợp trẻ mô côi từ Trung tâm Bảo trợ xã hội về làm việc tại trang trại.
Ngắm nhìn hàng xoan, đại tá Minh phấn khởi cho biết: Nếu thuận lợi khoảng 3 - 5 năm nữa sẽ thu hoạch được. Năm 2015, tôi sẽ mở rộng quy mô sản xuất và tuyển thêm nhiều lao động trên địa bàn. Nỗi niềm của vị đại tá công an trăn trở với xây dựng NTM, làm giàu trên mảnh đất quê hương thật đáng trân trọng biết bao.
Như Hùng
(TTV)
(HBĐT) - Đối với người Mường, cồng chiêng không chỉ đơn thuần là nhạc cụ mà đã trở thành giá trị văn hóa tinh thần không thể thiếu trong đời sống cộng đồng. Nếu ví những ông mo là người “giữ lửa” cho dân tộc Mường thì những nghệ nhân cồng chiêng cũng được ví như những người “giữ hồn” chiêng Mường. Gắn bó với “nghiệp” cồng chiêng gần 40 năm, nghệ nhân Bùi Thanh Mẻo, xóm Bãi Bệ 1, xã Dũng Phong (Cao Phong) là một trong ít những người có kiến thức sâu rộng và ý thức giữ gìn, phát triển loại nhạc cụ độc đáo này trong đời sống hiện đại.
(HBĐT) - Đến thăm nhà anh Sùng A Chìa, 35 tuổi ở xóm Xà Lĩnh (Pà Cò - Mai Châu), được chứng kiến và thán phục bởi mặc dù tuổi đời còn trẻ nhưng anh Chìa có cơ ngơi rộng đẹp không kém những gia đình người Mông khá giả khác trong vùng. Anh tâm sự: Hai vợ chồng đều làm cán bộ xã, thời gian còn lại cố gắng tăng gia sản xuất làm ra thật nhiều ngô, sắn, tích cóp vốn nuôi thêm con lợn, con gà để đổi thay cuộc sống của mình. Bà con dân bản thấy thế mới nghe, tin và học tập theo.
(HBĐT) - Mô hình trang trại của gia đình cựu chiến binh Bùi Ngọc Nhi, 57 tuổi, tại xóm Hang Nước, xã Mông Hóa (Kỳ Sơn) nằm trên đồi Cù Lòi, cách KDC xóm Hang Nước gần 1 km. Ấn tượng đầu tiên của chúng tôi là màu xanh của gần 5 ha keo lai gần 2 năm tuổi, gần 100 con lợn và 50 con dê tạo nên một bức tranh sinh động.
(HBĐT) - Tổ dân phố 15, phường Tân Thịnh (TPHB) có 100 hộ với gần 440 khẩu, trong đó, gần 40% hộ là cán bộ, công nhân sông Đà nghỉ chế độ 176 không lương và một số hộ dân khu vực lò mổ cầu Đen, phường Đồng Tiến di rời sang do sạt lở kè sông Đà. Khó khăn hơn khi các hộ dân khu sạt lở chuyển sang từ năm 1995 và 19 hộ gia đình khu thương nghiệp, giáo viên trường Sông Đà đến nay vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên tâm lý còn hoang mang, chưa thực sự yên tâm phát triển kinh tế, xây dựng, sửa chữa nhà cửa.
(HBĐT) - Trong không khí những ngày giáp Tết Nguyên đán Ất Mùi 2015, chúng tôi có dịp trở lại xã Mỹ Hòa (Tân Lạc) để gặp gỡ và trò chuyện với ông Đinh Văn Tỉnh ở xóm Đon - người có nhiều năm sưu tầm, bảo tồn những loại nhạc cụ văn hóa truyền thống của quê hương. Năm nay đã ngoài 70, tuổi “xưa nay hiếm” nhưng ông Tỉnh vẫn khá minh mẫn. Thái độ cởi mở, cái bắt tay thật chặt cũng đủ cho chúng tôi hiểu sự đầm ấm và thân thiện của con người Mường Bi.
(HBĐT) - Ban đầu, chỉ với một chút ít vốn kiến thức về tiếng nói, chữ viết, văn hóa Tày, ông đã ấp ủ ước mơ đem phổ cập cho toàn cộng đồng. Để biến “ước mơ gàn” đó - như ông nói - thành hiện thực, ông giáo làng Lường Đức Chôm (xã Trung Thành, huyện Đà Bắc) đã không quản ngại khó khăn, dành trọn tâm huyết suốt 20 năm cho tìm hiểu, truyền dạy ngôn ngữ - văn hóa dân tộc Tày. Cần mẫn và chuyên tâm đi "gieo" từng hạt mầm trên đá sỏi, những gì ông làm đã có sức lan tỏa diệu kỳ, góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị cao quý của văn hóa dân tộc.