(HBĐT) - Vì sao người Mường có thể hát đối đáp với nhau thâu đêm, suốt sáng, ngày này qua ngày nọ? Trong những câu hát rất đỗi đời thường, dung dị đó có điều gì mà trong các ngày hội, lễ Tết lại thu hút hàng nghìn người dân chăm chú lắng nghe, tán thưởng? Đã không ít lần chúng tôi đặt câu hỏi đó với những nghệ nhân hay bà con dân tộc Mường về sự hấp dẫn trong những câu hát đối (hay còn gọi là hát đúm, hát đúp, hát ví) và nhận được những lý giải hết sức đơn giản, đó là vì giọng hát hay, vì cách đối đáp quá đỗi thông minh, linh hoạt.
Cách gieo vần theo thể thơ
lục bát
Phải thừa nhận rằng, không dễ để tìm gặp được những người hát giỏi và am hiểu
về hát Mường, khi mà những buổi hát thâu đêm với khán giả chật kín ngôi nhà sàn
đã trở thành những miền ký ức. Dù vậy, ít nhất trong 1 năm, những người yêu câu
hát Mường có dịp hoài niệm khi hát đối vẫn là một trong những sinh hoạt văn hóa
nổi bật ở các lễ hội Khai hạ vào ngày mùng 6, 7, 8 Tết ở bốn Mường rộng lớn
trong tỉnh. Ở Mường Vang (Lạc Sơn) có không ít cây hát (cách gọi những người
hát giỏi - PV), nhưng "cái nôi” sản sinh ra nhiều giọng ca nổi tiếng nhất có lẽ
là ở xã Liên Vũ và các xã vùng cao như: Ngọc Lâu, Tự Do, Ngọc Sơn.
Chúng tôi được đồng chí Bùi Văn Tú, cán bộ văn hóa xã Liên Vũ dẫn đến gặp ông
Quách Văn Trận, một cây hát có tiếng ở đất này. Vốn yêu thích những câu hát
Mường, cùng với đó là năng khiếu trời cho nên từ khi lên mười tuổi, đã không ít
lần ông Trận quên ăn, quên ngủ vì đi nghe các anh, các chị hát đối giao duyên.
"Hát đối luôn hấp dẫn người nghe vì nó như một cuộc nói chuyện, lời thủ thỉ
giữa nam với nữ. Trong cuộc hát, hai người thể hiện tài năng, sự khéo léo của
mình qua những câu hát. Đó là điều khác biệt lớn nhất giữa hát đối với hát
thường đang”, ông Trận cho biết.
Theo ông Trận, để cuộc hát hấp dẫn, người hát không được để cuộc hát ngắt
quãng, nghĩa là người nam hát xong thì người nữ phải đáp lời ngay và ngược lại.
Như vậy, yếu tố "nhanh” là quan trọng nhất. Bà Quách Thị Tình, xóm Hầu 3, xã
Ngọc Lâu - một cây hát nổi tiếng ở vùng cao huyện Lạc Sơn cũng chung nhận định
với ông Trận. Bà Tình cho biết: Để hát đối được, ngoài giọng hát hay, người hát
phải có vốn từ vựng phong phú, đặc biệt là sự thông minh, nhanh trí và khéo léo
trong giao tiếp. Câu hát đối phải đúng với câu hỏi, vế đối mà người kia đưa ra,
có vần, có điệu, nghe xuôi tai.
Ông Bùi Văn Trận (bên trái), một trong những cây hát
nổi tiếng ở xóm Chiềng, xã Liên Vũ (Lạc Sơn) chia sẻ về hát đối của người
Mường.
Qua nghe những câu hát ông Trận, bà Tình thể hiện, có thể thấy, cách gieo vần
hết sức khéo léo, được vận dụng theo cách gieo vần của thể thơ lục bát. Nghĩa
là tiếng thứ 6 của câu sáu vần với tiếng thứ 6 của câu tám. Có thể dẫn chứng ra
một số câu hát trong hát đối giao duyên như: Khi cuộc hát giao duyên gần đến
hồi kết, giữa nam và nữ đã nảy sinh những tình cảm thì người nữ hát rằng: "Eng
(anh) về hỏi mẹ, hỏi cha/ Có cho lấy vợ nơi xa, ún (em) chờ”, còn nam đáp
lại: "Gia đình đồng ý ún ơi/ Để ta xây dựng sánh đôi vợ chồng”.
Là người sáng tác các bài hát Mường, bà Bùi Thị Xuân, xóm Vôi, xã Liên Vũ cũng
khẳng định, cách gieo vần theo thể thơ lục bát là yếu tố tạo nên sự mềm mại
trong những câu hát Mường. Trong cuốn sổ ghi chép những bài hát bà Xuân đã sáng
tác, có thể thấy đó đều là những bài thơ lục bát được phổ nhạc theo giai điệu,
làn điệu của dân ca Mường. Trong bài Hội đu Mường Vôi, bà Xuân viết: "Cổ
truyền đu hội dân gian/ Vọng vang khúc hát với làn điệu xưa/ Xuống đồng cầu
nắng, cầu mưa/ Dân làng sung túc, chiêm mùa bội thu”.
Say tiếng hát, ta về chung
một nhà
Để sáng tác một bài thơ theo
thể thơ lục bát là điều không dễ dàng. Ấy thế mà khi xưa những đôi trai tài,
gái sắc của bản Mường hát thâu đêm, suốt sáng với nhau, có lẽ phải đến cả nghìn
"bài thơ” ra đời sau mỗi buổi hát như vậy. "Có lần gặp mấy chị em ở trên xã Tự
Do xuống dưới này đi chợ, chúng tôi hát mấy đêm liền. Trời sáng thì về đi làm
đồng, tối lại hẹn nhau hát, càng hát càng hăng say. Nhiều khi nghĩ lại, không
biết tại sao lúc đấy lại nhanh trí như vậy, có khi đối phương chưa hát xong thì
trong đầu mình đã có sẵn câu hát đối lại”, ông Trận hóm hỉnh chia sẻ.
Câu chuyện đôi trai gái nên duyên vợ chồng nhờ hát đối không hiếm ở các bản
làng của người Mường. Thật thú vị khi ông Trận là trường hợp như vậy. Theo ông
Trận kể lại, năm ấy, ông là chàng thanh niên 21 tuổi cùng đám bạn ra chơi ở xã
Bình Cảng. Trong cuộc hát đối đó, ông đã gặp và hát đối với vợ của mình suốt
hơn bốn tiếng đồng hồ. Sau lần ấy, đôi trai gái đã tìm thấy một nửa của mình.
Một thời gian sau đó, ông Trận được cha mẹ đem trầu cau ra hỏi cưới cô gái Bình
Cảng xinh đẹp, hát hay về làm vợ.
Xưa kia, người hát giỏi được dân Mường trọng vọng không kém gì thầy mo. Có
khách xa đến chơi, có đám cưới, đám hỏi, nhà mới hay lễ, Tết thì những cây hát
luôn được chủ nhà, dân làng mời hát. Ngày nay, những cuộc hát thâu đêm như vậy
đã trở thành thứ hiếm có, khó tìm ở các bản Mường. Những cây hát như ông Trận,
bà Tình thi thoảng mới có dịp thể hiện tài năng của mình ở các hội làng, hội
xã. Không quá khi nói rằng, những câu hát đối không chỉ thể hiện tài năng của
người hát, mà còn là biểu hiện sinh động cho kho tàng dân ca truyền miệng phong
phú của người Mường. Kho tàng ấy, giá trị văn hóa ấy cần có chỗ đứng vững chắc
hơn nữa trong đời sống hiện đại.
Viết Đào