Bưởi chỉ có tương tác với một số thuốc.
Bưởi là trái cây giàu vitamin C, kali, rất cần dùng cho người béo phì, người có nguy cơ tim mạch. Kể từ năm 1989, nhiều tài liệu đã đề cập đến tương tác giữa bưởi và thuốc. Tuy nhiên tương tác với loại nào, mức độ ra sao thì lại phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Do chưa biết rõ về sự tương tác này dẫn đến kiêng tràn lan, gây khó khăn cho việc dùng thuốc và dùng bưởi, một loại hoa quả ngon miệng và giàu vitamin.
Cơ chế tương tác giữa bưởi và thuốc
Năm 1989, Bailey DG phát hiện tương tác giữa bưởi và felodipil (một thuốc chẹn canxi). Khi ăn bưởi cùng lúc với uống felodipin thì nồng độ felodipin máu tăng cao gấp 3 lần (chứng tỏ có thể chuyển hóa, thải trừ của felodipin bị chậm lại).
Sau này, các nghiên cứu sâu hơn đã cho thấy cơ chế tương tác với 3 nội dung chính:
- Một số thuốc được chuyển hóa bởi cytochrom P-450 3A4 ( CYP3A4) ở gan và ruột. Trong ruột, nồng độ CYP3A4 có thể giảm tới 47% trong vòng 4 giờ sau khi ăn bưởi (dahan A, altmanH-2004) và sự tương tác này kéo dài 24 -72 giờ (Lundahl J-1995, Takanaga H-2004.) Đến nay vẫn chưa biết rõ chất gì trong bưởi ức chế CYP3A4.
- Tương tác chỉ xảy ra ở ruột với các thuốc dạng uống. Những thuốc tiêm tĩnh mạch cũng chuyển hóa bởi CYP3A4 không hề có sự thay đổi nồng độ trong máu khi ăn bưởi cùng lúc (dahan A, altmanH- 2004).
- Những thuốc chuyển hóa bởi CYP3A4 ở ruột có sinh khả dụng thấp, khoảng cách giữa liều điều trị và liều gây độc hẹp thì tương tác giữa bưởi và thuốc đó mới có ý nghĩa lâm sàng: làm tăng nồng độ thuốc đó trong máu, tăng hiệu lực lẫn tác dụng phụ, giống như dùng quá liều (Bailey DG, Dreser GK-2004).
Sau đây là 5 nhóm thuốc (trong mỗi nhóm lại có các thuốc cụ thể) có tiềm năng tương tác với bưởi (khi dùng cùng lúc bằng đường uống):
Nhóm thuốc chống loạn nhịp: Có 3 thuốc: amiodaron (cordaron), disopyramid (norpace), quinidin. Bưởi làm tăng nồng độ máu của các thuốc này, kéo dài khoảng QT, làm rối loạn các yếu tố đông máu, làm chậm nhịp tim, có thể gây độc với tuyến giáp và phổi, tổn thương gan kéo dài. Riêng quinidin, bưởi làm tăng nồng độ của thuốc này trong máu có thể dẫn tới gây xoắn đỉnh.
Nhóm thuốc chẹn kênh canxi: Có 5 loại thuốc: felodipin (plendil), nicardin (cardene), nifedipin (procardia), nimodipin (nimotp) và nisodipin (solar). Bưởi làm tăng nồng độ máu của các thuốc này, gây bốc hỏa, phù ngoại biên, nhức đầu, tim đập nhanh, hạ huyết áp có triệu chứng và trong một số trường hợp có thể gây nhồi máu cơ tim nhưng hiếm. Xử lý bằng cách thay bằng các thuốc khác như amlodipin (novasc), diltiazem (cardizem), verapamil (calan).
Statin chống rối loạn lipid: Gồm 3 loại thuốc là atorvastatin (lipitor), lovastatin (mevacor) và simvastatin (zocor): Bưởi làm tăng nồng độ máu của các thuốc này, gây nhức đầu, rối loạn tiêu hóa, viêm gan và có thể gây bệnh lý cơ (tiêu cơ vân). Xử lý bằng cách chọn thay bằng các thuốc như fluvastatin (lescol), pravastatin (pravachol), rosuvastatin (crestor), acid fibric, acid nicotinic hoặc thuốc kết hợp với acid mật.
Nhóm thuốc ức chế miễn dịch: Gồm 2 thuốc cyclosporin (sandimmune, neoral) và tacrolimus (prograf): Bưởi làm tăng phơi nhiễm thuốc mà không ảnh hưởng trên nồng độ máu các thuốc này, làm tăng ức chế miễn dịch, tăng tai biến bất lợi hoặc tăng độc tính (ở thận, gan). Hiện chưa có thuốc thay thế, vì vậy khi dùng các thuốcc này thì nhất thiết không dùng bưởi.
Nhóm ức chế protease, trong đó có saquinavir (fortovase): Bưởi làm tăng nồng độ máu của thuốc này, tăng các tác dụng phụ như nhức đầu, mệt, mất ngủ, lo âu. Xử lý bằng cách chọn thay bằng các thuốc khác như amprenavir (agenerase), atazanavir (reyataz), fosarmpenavir (lexiva), indicavir (crixivan)...
Một vài lưu ý
Từ cơ chế cũng như từ các nghiên cứu thực tế về tương tác của bưởi với các loại thuốc có thể thấy: Không thể suy luận chủ quan bưởi tương tác với một loại thuốc nào thì cũng tương tác với các loại thuốc cùng nhóm với thuốc này (có chung cơ chế tác dụng và cơ chế chuyển hóa). Một ví dụ rất rõ: bưởi tương tác với 5 thuốc thuộc nhóm chẹn canxi felodipin (plendil), nicardin (cardene), nifedipin (procardia), nimodipin (nimotp), nisodipin (solar) nhưng lại không tương tác với các thuốc chẹn canxi khác như amlodipin (novasc), diltiazem (cardizem), verapamil (calan), amlodipin (novasc), diltiazem (cardizem), verapamil (calan). Sự suy luận như vậy không đúng mức độ tương tác có ý nghĩa lâm sàng, dẫn đến kiêng ăn bưởi với quá nhiều loại thuốc, gây khó khăn cho việc dùng thuốc, cũng như gây khó khăn cho việc dùng bưởi.
Những nghiên cứu trình bày trên mới chỉ là một số có giới hạn trong số các thuốc chuyển hóa bởi CYP 3A4 ở ruột. Bưởi được dùng khá nhiều, thầy thuốc cần nghiên cứu thêm, cần cập nhật thêm các thuốc thực sự có tiềm năng tương tác với bưởi có ý nghĩa lâm sàng để hướng dẫn người bệnh tránh tương tác khi cần thiết.
Theo Báo SKĐS
Theo Y học cổ truyền, béo phì thuộc phạm trù phì nhân, nhục nhân; bệnh đã được nêu ra từ rất sớm trong các tác phẩm Tố vấn - Thông bình hư thực luận, Linh khu - Chương vệ khí thất dưỡng đều cho rằng béo phì đa phần là do đàm nhiều, thấp nhiều và khí hư gây nên; nguyên nhân thường có liên quan đến bẩm tố tiên thiên, do ăn nhiều cao lương mỹ vị, đồ ăn béo ngọt, nằm nhiều, ngồi nhiều, ít vận động.
Thiếu nhân lực dược lâm sàng: Ở các nước tiên tiến, trong bệnh viện, dược sĩ lâm sàng (DSLS) được biên chế thường trực tại các khoa lâm sàng, cùng làm việc với bác sĩ, có mặt ngay lúc kê đơn thuốc, góp ý với bác sĩ lựa chọn thuốc, sau khi có y lệnh, DSLS phải có mặt lúc điều dưỡng viên cho người bệnh dùng thuốc, trao đổi với người bệnh về các thuốc mà họ dùng, phát hiện các vấn đề liên quan đến thuốc (gọi là qui trình chăm sóc Dược lâm sàng).
Bệnh lo âu lan toả ngày càng trở nên phổ biến. Tỷ lệ người mắc bệnh này trong 1 năm là 3,8%. Còn tỷ lệ bị bệnh suốt đời là 6,6%. Bệnh lo âu lan toả gặp ở cả hai giới, nhưng phụ nữ bị bệnh cao gấp 2 - 3 lần nam giới.
Luyện tập mang lại khá nhiều lợi ích cho sức khỏe thai phụ. Để đảm bảo an toàn trong quá trình tập luyện, bạn nên lưu ý những điều dưới đây.
(HBĐT) - Năm 2009, tỉ lệ người mắc bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) của tỉnh ta là 2,1%, chỉ đứng sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và một số thành phố lớn. Vấn đề đặt ra hiện nay là bệnh đang ngày càng gia tăng cả về tỷ lệ, biến chứng và đối tượng mắc bệnh.
Đi tiểu là một nhu cầu hoàn toàn bình thường và thuộc chức năng sinh lý của con người. Ở người bình thường, ban ngày có thể đi tiểu vài ba lần và ban đêm gần như không đi tiểu mà ngủ một mạch từ tối cho tới sáng mới đi tiểu. Ở người cao tuổi (NCT), nhiều chức năng sinh lý có sự thay đổi đáng kể và sự thay đổi chức năng sinh lý ở NCT cũng tùy thuộc vào từng người khác nhau. Trong các loại chức năng sinh lý thay đổi đó thì chứng tiểu đêm ở NCT rất hay gặp.