Tiềm năng chẩn đoán của nước bọt (nước miếng) là rất lớn, từ các bệnh lý vùng miệng như sâu răng và nha chu cho đến các bệnh toàn thân như bệnh di truyền, bệnh tự miễn, bệnh chuyển hóa hay ung thư.

Nước bọt đã được sử dụng trong chẩn đoán cách đây hơn... 2.000 năm. Những lương y ngày xưa của y học cổ truyền Trung Hoa đã kết luận nước bọt và máu là “anh em” trong cơ thể và chúng đến từ cùng một nguồn gốc. Người ta tin rằng những thay đổi ở nước bọt chỉ thị cho tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.

Chính xác 99,9%

Nước bọt như một dịch phẩm chẩn đoán các bệnh lý răng miệng và toàn thân đã được đề cập từ khá lâu, tuy nhiên mãi đến những năm gần đây y học mới thật sự có bước tiến nhảy vọt trong việc nghiên cứu nước bọt.


Tại Trung tâm y khoa Medic TP.HCM đã thực hiện xét nghiệm nước bọt để chẩn đoán bệnh mất ngủ, rối loạn nội tiết và tế bào di truyền.
 Trong ảnh: một bệnh nhân tự lấy mẫu nước bọt tại nhà - Ảnh: N.C.T.

Cách đây bảy năm, Viện Quốc gia nghiên cứu nha khoa và sọ mặt (NIDCR) Hoa Kỳ đặt mũi nhọn đầu tư phát triển việc sử dụng nước bọt như một công cụ chẩn đoán.

Trả lời bệnh trong 1 giờ

Phòng chẩn đoán chức năng khoa răng hàm mặt Đại học Y dược TP.HCM đã nhập các thiết bị, hóa chất chẩn đoán nguy cơ sâu răng, bệnh lý răng miệng qua nước bọt, kết quả được trả lời nhanh trong vòng một giờ. Phòng cũng đang nhập những xét nghiệm về hormon và ung thư.

Các nhà khoa học đã dần hoàn thiện các bộ công cụ chẩn đoán nước bọt, trước hết là việc tập hợp các protein và tập hợp các sản phẩm phiên mã (transcriptome) có trong nước bọt để hình thành một “mục lục” chẩn đoán nước bọt.

Bản tin ABC News ra ngày 1-2-2010 có bài viết “Xét nghiệm di truyền mới giúp bố mẹ có được những đứa con khỏe mạnh” cho biết một dạng tầm soát mới được gọi là xét nghiệm di truyền phổ quát (Universal genetic test) giúp xác định các ông bố và bà mẹ tương lai có phải mang gen các bệnh di truyền hay không.

Không như các xét nghiệm di truyền truyền thống (cần một mẫu máu cho một bệnh chuyên biệt và việc lấy mẫu được thực hiện tại bệnh viện), xét nghiệm mới này chỉ cần một lượng nhỏ nước bọt tự lấy tại nhà, gửi mẫu nước bọt đến phòng xét nghiệm, kết quả sẽ được trả lời qua email.

Thật thú vị, từ nước bọt có thể tìm kiếm hơn 400 đột biến của 109 bệnh di truyền khác nhau với độ chính xác 99,9%, trong đó có các bệnh khá phổ biến như các nang u xơ, bệnh hồng cầu hình liềm, bệnh tay-sachs (bệnh đần độn và mù gia đình), bệnh thiếu máu vùng biển (beta thalassaemia), bệnh teo cơ tủy mãn tính...

Đoán trước việc sinh non

Người ta cũng đã sử dụng nước bọt để phát hiện các bệnh nhiễm khuẩn và nhiễm virus như HIV, HBV, HCV. Nhiều xét nghiệm dịch miệng đã được phát triển để chẩn đoán HIV. Xét nghiệm HIV bằng nước bọt đã được Cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) thông qua và chứng nhận tốt hơn xét nghiệm máu.

Nhiều loại thuốc phát hiện được trong nước bọt. Hiện nay xét nghiệm nước bọt dùng để đánh giá tình trạng lạm dụng thuốc, chẳng hạn như cocaine, ethanol và các chất có thuốc phiện.

Nước bọt cũng dùng để giám kiểm thuốc điều trị như digoxin, methadone, một số thuốc chống co giật... và sự tuân thủ đối với việc điều trị của các bệnh nhân tâm thần hay giám kiểm tình trạng hút thuốc lá và phơi nhiễm khói thuốc. Một khía cạnh khác của xét nghiệm nước bọt là đánh giá sử dụng thuốc trái phép, thường phục vụ mục đích pháp y.

Ngoài ra, nước bọt là dịch phẩm rất thích hợp để xác định hàm lượng của hầu hết hormone, trong đó có estrogen (estradiol), progesterone, dehydroepiandrosterone (DHEA) và cortisol. Đặc biệt quan trọng là estradiol vì đó có thể là một chỉ số của tình trạng sinh non và trẻ sinh nhẹ cân.

Chẩn đoán nước bọt có thể tạo ra một thay đổi lớn trong thực hành lâm sàng bằng việc đưa ra các xét nghiệm thuận tiện, chính xác và không gây đau, không làm bệnh nhân sợ, nhất là các bệnh nhi.

Một chút nước bọt sẽ giúp việc theo dõi tình trạng sức khỏe, khởi phát, tiến triển bệnh và đánh giá kết quả điều trị có thể thực hiện ngay cả ở vùng xa xôi, hẻo lánh hay vùng nghèo khó.

 

                                                                       Theo NLĐ

Các tin khác

Không có hình ảnh
Không có hình ảnh
Khảo sát, tuyên truyền, tư vấn bệnh Thalassemia tại 3 xã của huyện Kim Bôi.
Rửa tay bằng xà phòng ngăn cản vi khuẩn tả xâm nhập cơ thể.

Những hội chứng trầm kha thời hiện đại

Cuộc sống hiện đại khi mà hàng ngày hàng giờ con người luôn tiếp xúc với các thông tin mới mẻ và máy vi tính đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống, một tiện ích thông minh trong việc nối kết toàn cầu thì công việc của con người ngày một trở nên thuận tiện hơn. Nhưng cũng từ đây con người lại đang đối mặt với những căn bệnh do thế giới văn minh đem lại.

Giải pháp “vàng” cho bệnh nhân đột quỵ não

Nguy cơ tử vong ở những người đột quỵ do tắc động mạch não có thể lên tới 90% nếu không được điều trị kịp thời. Một số trường hợp có thể qua khỏi cơn nguy kịch nhưng lại phải gánh chịu di chứng nặng nề. Điều đáng lưu tâm là hiện nay, tắc động mạch não không chỉ thường thấy ở người cao tuổi mà xu hướng trẻ hóa bệnh đang ngày một gia tăng. Một phương pháp điều trị mới đang được ứng dụng tại Khoa Cấp cứu Bệnh viện Bạch Mai trở thành hy vọng cho người bệnh và mang đến một cách nhìn mới cho các thầy thuốc trước căn bệnh này.

Dị ứng thức ăn ở trẻ em

Dị ứng thức ăn là triệu chứng của việc hệ miễn dịch phản ứng do ăn phải những thực phẩm không hợp với cơ thể. Khi xảy ra dị ứng, cơ thể sẽ phản ứng lại bằng cách sinh ra các kháng thể như kháng thể globulin E (GLE) để chống lại những tác nhân gây ra dị ứng. Kháng thể Gle cùng với hệ thống miễn dịch tiết ra chất hóa học được gọi là histamin đi vào trong máu. Nó chính là nguyên nhân gây ra hiện tượng ngứa mắt, họng khô, phát ban, buồn nôn, khó thở, và thậm chí là gây sốc.

81% trẻ em từ 4 - 8 tuổi bị sâu răng sữa

Đây là kết quả điều tra được Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt - Trường Đại học Y Hà Nội công bố ngày 5/4 thực hiện trên nhóm trẻ em 4 - 8 tuổi ở 5 tỉnh thành gồm Hà Nội, Lạng Sơn, Thái Bình, Bình Thuận và Tiền Giang tháng 3/2010.

Nhiễm virut cự bào khi mang thai: Nguy cơ tiềm ẩn cho thai nhi

Nhiễm virut cự bào (cytomegalovirus, viết tắt CMV) khi mang thai ít được biết đến nhưng lại khá phổ biến và thực sự tiềm ẩn nhiều nguy hiểm cho thai nhi. Loại virut này ít lây nhiễm nhưng đặc biệt hay gặp ở trẻ nhỏ. Vì thế, những phụ nữ làm công việc tiếp xúc nhiều với trẻ cần rất thận trọng. Nếu như thực hành vệ sinh đối với mọi người là cần thiết để phòng ngừa nhiễm khuẩn, trước tiên là cúm và viêm đường ruột thì đối với phụ nữ mang thai lại càng khẩn thiết. Khi mang thai, một số nhiễm khuẩn có thể nghiêm trọng không chỉ cho người mẹ mà cho cả thai và nhiễm CMV là một trong số nhiễm khuẩn cần đặc biệt quan tâm.

Hoắc hương - thanh nhiệt, sát khuẩn

Hoắc hương, tên khoa học là Poyostemon cablin (Bl) Benth. Bộ phận dùng làm thuốc của hoắc hương là cả cây, nhất là lá, thu hái khi trời khô ráo, loại bỏ lá sâu hay lá già úa, đem phơi nắng nhẹ hay sấy ở nhiệt độ 40-45oC đến khô. Có thể cất tinh dầu từ lá tươi để dùng.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục