Trong Tết nhảy của người Dao có nhiều điệu múa đặc sắc.
(HBĐT)- Bắt đầu từ ngày 23 tháng chạp, khi hoa đào, hoa mơ trong vườn, trên các triền đồi chúm chím những nụ xuân, khắp các bản làng người Dao lại rộn ràng những đêm Tết nhảy. Phong tục, nghi thức của mỗi ngành Dao có nét khác nhau nhưng lễ nghi cơ bản đều giống nhau. Hàng năm, người Dao có nhiều cái Tết nhưng Tết Nguyên đán và Tết nhảy là lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cộng đồng.
Thật may mắn, trong chuyến công tác đến xã Cao Sơn (Đà Bắc), chúng tôi được chứng kiến lễ Tết nhảy của đồng bào Dao ở bản Tằm. Chủ nhân của lễ Tết nhảy hôm nay là gia đình anh Triệu Văn Si. Tìm hiểu, khám phá Tết nhảy, những người “ngoại đạo” chúng tôi có cảm giác như được sống ở một thế giới khác, nơi đất, trời và con người giao hòa, quá khứ và hiện tại đan xen theo những lời hát, điệu nhảy độc đáo. Tết nhảy là tết của gia chủ nhưng lại được cả bản, cả vùng coi như tết chung. Anh em, bạn bè và cả những người bạn nơi xa mới quen cũng được nồng nhiệt chào đón. Ngay từ 14 giờ, ngôi nhà của anh Si đã chật kín người. Tất cả đều tất bật giúp gia chủ chuẩn bị cho những nghi lễ quan trọng sắp bắt đầu. Trên bộ phản ngoài sân, thầy cúng cặm cụi lật từng trang sách đặc kín Hán tự ghi chép lại nguồn gốc, gia phả, phong tục truyền thống của dân tộc Dao. Bằng giọng chậm rãi, khúc triết, thầy giảng giải: Tổ tiên của người Dao ở phương Bắc. Trong quá trình đi tìm vùng đất mới sinh nhai, khi trên biển, đoàn thuyền gặp hoạn nạn, mưa to, bão lớn, mịt mùng. Một số chiếc đã bị nhấn chìm, những thuyền còn lại cũng mỏng manh trước sóng gió biển cả. Lo sợ, mọi người đã cầu khấn đất, trời, long vương, nếu qua được hiểm nguy vào được đất liền, lập làng, lập bản, người Dao sẽ làm Tết nhảy để tạ ơn. Tết nhảy được người Dao duy trì, phát triển về sau còn bắt nguồn từ những truyền thuyết về cuộc thiên di đầy bi tráng và hào hùng của tổ tiên. Trung bình mỗi đời người đàn ông thực hiện vài ba lần tết Nhảy. Người Dao quan niệm rằng, sau những năm làm ăn, sinh sống, con người đã phải trải qua nhiều điều trắc trở. Bởi vậy, đúng kỳ hạn phải cầu khấn trời đất, thần linh và tổ tiên giải trừ những rủi ro và ban may mắn, phúc đức.
Ở góc sân bên kia, một số cụ cao niên cũng đang tỉ mỉ ngồi vẽ hoa văn, họa tiết lên những thanh gỗ có hình dáng con dao, thanh kiếm, thuổng, cờ, xe... Các cụ giải thích, đây là những thứ không thể thiếu được trong Tết nhảy. Chúng tượng trưng cho những công cụ mà tổ tiên chúng tôi đã dùng để lao động và bảo vệ cuộc sống. Tết nhảy là một trong những nghi lễ quan trọng bậc nhất của người Dao nhưng phải có sự chuẩn bị công phu. Ngoài những lễ vật như: lợn, gà phải có đủ lòng, chân, thủ, đuôi..., bàn thờ được trang trí bằng bốn lá cờ đuôi nheo ở 4 góc. Trên vách tường treo những bức tranh vẽ các tướng quân, vệ sĩ, diêm vương phán xét. Sau lễ gieo quẻ bằng tiếng Dao của ông thầy, đêm Tết nhảy thứ nhất chính thức bắt đầu. Cũng như nhiều gia chủ khác, Tết nhảy tại gia đình anh Si kéo dài trong 3 ngày, 3 đêm. Tiếng trống, tiếng chuông dồn dập theo giọng hát, điệu múa của thầy cúng và đám thanh niên như từ quá khứ vọng về làm cho bản làng rộn rã, ấn tượng. Trong Tết nhảy, nhảy múa chiếm phần lớn thời gian, bao trùm cả không gian và diễn ra liên tục hết lớp này đến lớp khác. Bắt đầu từ điệu múa chuông, tiếp đến là múa chim, múa bắt cá sấu, múa cờ, kiếm. Múa chuông là điệu múa dẫn đường với những động tác lặn ngụp dưới nước, vung gươm, phất cờ để diệt thú dữ, vượt thác ghềnh trên đường thiên di đến vùng đất mới sinh sống. Cuối cùng là múa bắt rùa. Trước đèn thờ cúng, thầy cúng múa đi trước, theo sau là đám thanh niên nối tiếp nhau đảo quanh đèn cúng, vừa đi, vừa diễn tả động tác tìm rùa, bắt rùa, khiêng về nhà. Giữa tiếng trống, tiếng thanh la, não bạt và hò vang làm không khí trở nên tưng bừng để chứng tỏ sự tạ ơn với tổ tiên, biểu lộ sức mạnh phi thường cho dân tộc trường sinh. Qua Tết nhảy, các loại hình nghệ thuật dân gian, nghệ thuật nhảy múa, âm nhạc, ngôn ngữ, trang trí, tạo hình được phô diễn phong phú và đặc sắc.
Nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, NSưT Bùi Chí Thanh đã từng nhận xét: Tết nhảy của dân tộc Dao là một cái tết độc đáo có một, không hai. Nét văn hóa đặc sắc này không chỉ bó hẹp trong nội bộ dân tộc Dao mà còn là một lễ hội mở rộng cửa đón chào sự tham gia của bạn bè các dân tộc khác. Có lẽ cũng chính vì vậy mà đồng bào các dân tộc nơi vùng sơn cước này luôn gắn bó và thắm tình đoàn kết, cùng đắp xây cuộc sống mới ấm no.
Minh Châu
(HBĐT) - Trong những ngày đầu năm, các bản làng đều tổ chức nhiều hoạt động lễ, hội độc đáo mang tính cộng đồng cao và đậm đà bản sắc văn hóa của các dân tộc vùng Tây Bắc. Dọc tuyến QL 6 lên phía Tây Bắc, vào những ngày đầu xuân, có 3 lễ hội lớn được mọi người quan tâm, đó là lễ hội Khai hạ của đồng bào Mường, hội xên bản, xên Mường của đồng bào Thái và lễ hội Gầu Tào của đồng bào Mông.
(HBĐT) - Trống đồng là tài sản quý giá được coi là báu vật mà cha ông để lại cho chúng ta hôm nay, là biểu tượng của nền văn minh và văn hoá Việt Nam thời dựng nước. Hoà Bình là một trong những tỉnh phát hiện và lưu giữ nhiều trống đồng nhất trong cả nước.
(HBĐT) - Sau những kết quả thu được từ việc khai quật 9 trong số 20 địa điểm di tích hang động tại vùng núi đá vôi Hoà Bình, năm 1927, nhà khảo cổ học người Pháp- Madelene Colani đã đề xuất khái niệm “Văn hoá Hoà Bình” chia làm 3 giai đoạn: Hậu kỳ đồ đá, Tiền đá mối, Sơ kỳ đá mới.
(HBĐT) - Tại Mường Bi (Tân Lạc) vẫn còn nhiều gia đình còn giữ được những nóc nhà sàn, nhiều giá trị văn hoá cổ của người Mường, một trong những giá trị văn hoá đó là cách tính lịch riêng mà người Mường ở Mường Bi hay gọi là lịch Đoi loại lịch này hiện vẫn còn giữ gìn trong các gia đình trí thức truyền thống của người Mường hay những gia đình thuộc tầng lớp các thầy mo.
(HBĐT)- Chuyện cũ kể rằng: tiếng hát, điệu múa của người Mường có từ lâu lắm rồi, từ thời “Đẻ đất, đẻ nước” tạo ra đất mường. Ngày ấy Dạ Dân gánh một gánh nặng những tiếng hát, điệu múa đi gieo khắp cả vùng quê của người Mường. Tiếng hát thường tình tứ, những điệu múa rộ ràng, uyển chuyển hoà cùng với tiếng cồng, tiếng chiêng, ngân vang xa mãi từ mường này tiếp sang mường khác không dứt. Người mường Bi có múa và biết múa từ đấy.
(HBĐT) - Người Tày – Thái ở Đà Bắc có hai bộ phận: bộ phận đông nhất là người Tày – Thái, một bộ phận ít hơn là người Tày ở các tỉnh thuộc khu vực Việt Bắc tới. Trang phục của bộ phận người Tày giống như trang phục của người Tày giống như trang phục của người Tày ở các tỉnh thuộc khu Việt Bắc. Vì vậy, phần này chỉ tập trung trình bày về trang phục của người Tày – Thái ở Đà Bắc.