Trang phục dân tộc Mường mang nhiều nét đặc trưng riêng biệt.

Trang phục dân tộc Mường mang nhiều nét đặc trưng riêng biệt.

(HBĐT)- So với một số dân tộc khác, trang phục của người Mường không có màu sắc rực rỡ mà đơn giản hơn nhiều, song cũng có những nét rất đặc trưng. Nam giới thường mặc áo ngắn hoặc áo dài, màu chàm, cài khuy, quần dài, rộng, thắt lưng quấn quanh cạp, đầu búi, quấn khăn dài, đầu khăn giắt sang hai bên, sau này cũng có dùng khăn xếp quấn như của người Kinh dưới xuôi.

 

Trang phục của phụ nữ thường là áo màu trắng hay màu sáng ngắn chấm đến eo để chỗ cho chiếc cạp váy chiếm vị trí quan trọng trong trang phục. Váy của phụ nữ Mường thường dùng vải thâm hay nhuộm chàm đen hình ống. Nổi bật nhất của chiếc váy là cái cạp váy đã trở thành một sản phẩm nghệ thuật đặc sắc nhất của người Mường. Trang phục của một phụ nữ Mường gồm có:

 

-          Cái mũ: thực ra là cái khăn đội đầu màu trắng

-          Cái yếm: giống hệt như yếm của người Kinh tuy có phần ngắn hơn, màu trắng.

-          Cái áo: tương tự như áo cánh của phụ nữ Kinh, tuy ngắn hơn nhiều, cũng xẻ giữa nhưng không cúc, không khuy, màu trắng.

-          Cái váy: “ống” vải đen bó thân thể người mặc từ nách xuống gần mắt cá chân. Phần cạp váy đè lên nửa dưới yếm và góp phần che ngực thêm kín.

-          Cái tênh: là chiếc khăn dài thường nhuộm lục, thít quanh váy, ngang tầm hông.

-          Cái áo chùng: tương tự như áo dài của phụ nữ Thái, xẻ giữa nhưng không cúc, không khuy, màu trắng, có khi màu đen.

-          Cái khăn thắt áo: là chiếc khăn sồi không nhuộm thắt quanh áo chùng ngang tầm hông để khép hai tà áo lại, hai múi khăn buông ngắn đăng đối hai bên.

 

Chính cái cạp váy trong trang phục của phụ nữ Mường đã tạo ra nét đặc trưng riêng của người Mường về sắc thái thẩm mỹ trong trang phục. Trang trí của hoa văn nghệ thuật trên cạp váy tạo ra sự tương phản với màu đen và màu trắng trên áo, váy của người phụ nữ Mường, làm trang phục của họ nổi lên trước quang cảnh của núi rừng. Sự nổi trội ấy lại không chói lọi, rực rỡ như màu đỏ của người Dao, người Cao Lan mà lại hết sức khiêm tốn, nền nã, kín đáo. Giữa hai thái cực của màu trắng và màu đen trong cái mênh mông của màu xanh núi rừng thì hoa văn cạp váy như những đốm sáng, như “những chấm phá tôn được cả đen lẫn trắng uốn lại cái nhạt nhẽo vô tình hay cố ý của nền áo- váy. Tác dụng mà cạp váy phát huy cũng kín đáo không kém bối cảnh trên đó nó phát huy tác dụng, dù kín đáo theo một nghĩa khác. Đây không phải là kết quả vận động của riêng bản thân màu sắc…”

 

Cạp váy có thể tách thành bộ phận riêng, nên những khi không cần thiết hoặc chưa dùng đến, nó có thể được cất riêng. Vì thế, một cạp váy có thể sử dụng cho nhiều váy, thậm chí cho nhiều người ở các thế hệ khác nhau. So với toàn bộ váy thì cạp váy chiếm tỷ lệ khoảng 30%, lại được thắt từ sát nách xuống đến hông, do đó nó vừa có ý nghĩa trang trí vừa có ý nghĩa che kín thân thể ở mức độ cần thiết.

 

Điểm nổi bật nhất của cạp váy Mường là những họa tiết trang trí hoa văn trên bề mặt của nó. Với một diện tích không lớn, cạp váy chứa đựng một số lượng hoa văn khá phong phú về cả hình thức và kiểu loại. Cạp váy được chia làm ba phần gọi là: rang trên, rang dưới và cao. Thứ tự ba mảng này được tính từ miệng váy trở xuống, tức là phần trên cùng được gọi là rang trên. Hoa văn của mỗi phần là cái để phân biệt chúng với nhau, trong đó hoa văn của rang trên và hoa văn cao thuần túy là hoa văn hình học, riêng phần cao đôi khi không có hoa văn, còn phần rang trên thì luôn là hoa văn hình học. Phần rang dưới chủ yếu là hoa văn động vật với rất nhiều mô típ khác nhau. Các nhà nghiên cứu đã thống kê có 37 mô típ hoa văn cạp váy, trong đó có 25 mô típ hoa văn động vật. Bởi là một sản phẩm đặc sắc của trang phục phụ nữ nên người Mường dồn toàn bộ tâm trí và tài năng của mình vào đây. Đây cũng chính là chỗ để các cô gái Mường trổ tài của mình trước cộng đồng, thể hiện ở kỹ thuật dệt hoa văn cạp váy. Kỹ thuật đó được bắt đầu từ khung cửi đặc biệt dùng để dệt cạp váy với nhiều “co” (go), nhiều mẫu hoa văn hơn các khung cửi khác. Cách dệt cũng phức tạp hơn và đòi hỏi người dệt cũng phải khéo léo hơn. Kỹ thuật đó còn được thể hiện ở việc nhuộm sợi của người phụ nữ Mường để tạo ra những màu sắc đẹp, bền cho hoa văn trên cạp váy của mình. Tuy mảng màu truyền thống của người Mường cũng chỉ là những màu khá đơn giản như: trắng, đen, đỏ, vàng và xanh, song việc tìm ra những chất liệu nhuộm, kỹ thuật nhuộm cũng đòi hỏi một tài năng nhất định của người thợ mới có thể làm ra được các màu ưng ý.

 

Tài năng của người dệt còn thể hiện ở việc bố cục các mô típ hoa văn ở từng rang sao cho hợp lý, việc sắp xếp vị trí của từng loại hình động vật, hình trang trí ở rang dưới như thế nào cho đẹp mắt, cái nọ hỗ trợ làm nổi bật cái kia mà không phá vỡ bố cục chung… Tất cả những cái đó đòi hỏi đầu óc thẩm mỹ tinh tế và điêu luyện của người thợ dệt, để tạo ra được một sản phẩm có giá trị. 

 

Cạp váy Mường trong bộ trang phục của người phụ nữ Mường vừa giản dị, kín đáo, không phô trương mà lại nền nã, hấp dẫn và không kém phần đặc sắc. Một điều đặc biệt là rất nhiều hoa văn trên cạp váy Mường cũng là các mô típ hoa văn phổ biến trên trống đồng Đông Sơn. Điều này cho thấy các hoa văn cạp váy Mường có giá trị cả về mặt nghệ thuật lẫn lịch sử, liên quan đến một thời kỳ rực rỡ của văn minh Việt Nam.

 

Trong trang phục của người phụ nữ Mường, ngoài những nét đặc sắc của hoa văn cạp váy thì chiếc khăn trắng quấn trên đầu người phụ nữ tuy rất đơn giản nhưng cũng mang một ý nghĩa sâu sắc. Ngoài ý nghĩa thực dụng là để che cơ thể trước nhiệt độ, thời tiết và những bất trắc ở núi rừng, khăn quấ đầu còn có một ý nghĩa xã hội rất sâu xa gắn với truyền thuyết đầy lãng mạn về một mối tình giữa một chàng trai đất Mường nghèo tên là Khỏe với cô gái nhà lang xinh đẹp là Út Dô. Do khác biệt về thân thế, đôi trai tài gái sắc không lấy được nhau đã dẫn đến một mối tình tuyệt vọng. Nàng Út Dô đi theo tiếng gọi của tình yêu đã chết và biến thành những bông hoa clăng mọc đầy ven suối. Để tưởng nhớ mối tình ấy mà con gái Mường từ già đến trẻ đều lấy một mảnh vải nguyên gốc từ sợi bông đội lên đầu để nhớ thương họ, đồng thời màu trắng của khăn cũng như màu trắng của những bông clăng là biểu tượng cho sự chung thủy, trong trắng của người con gái Mường.

 

                                                                            HBĐT tổng hợp

 

Các tin khác

Các cô gái Dao chuẩn bị đi hội. (Ảnh: Quốc Dũng)
Nhân dân xã Quyết Chiến (Tân Lạc) trồng su su lấy ngọn cho thu nhập cao.
Công chiêng được sử dụng trong các dịp lễ, hội của vùng Mường Bi
Đoàn nghệ thuật dân gian các dân tộc Hòa Bình biểu diễn nhiều tiết mục văn nghệ mang đậm chất dân ca Thái trong các chương trình nghệ thuât.

Dân ca của người Mường (tiếp)

(HBĐT) - Hát lời thương: Đây là một loại hình dân ca của người Mường hát đối đáp nam nữ.

Dân ca của người Mường (phần 1)

(HBĐT) - Hát sắc bùa: Hát sắc bùa là một loại hình dân ca được sử dụng trong các dịp lễ tết, hội hè hay cưới xin. Đặc biệt là vào dịp đầu năm, phường sắc bùa đi chúc tết khắp mọi nhà đều cầu chúc một năm mới may mắn, thành đạt và khỏe mạnh cho gia chủ:

Những sáng tác văn vần dân gian

(HBĐT)- Ở phần này, chúng tôi xin gộp ca dao, tục ngữ, truyện thơ… tức là những sáng tác có vần có điệu vào một mục, dẫu rằng mỗi một thể loại này đều có tách bạch thành những thể loại riêng biệt.

Cửu thác Tú Sơn - điểm đến hấp dẫn của du lịch Kim Bôi

(HBĐT) - “Cửu thác thượng ngàn mơ không thấy Long cung giếng Ngọc mấy ai hay Đến rồi lòng ngẩn ngơ say Bồng lai tiên cảnh đây rồi, Tú Sơn.”

Phong phú kho tàng văn học, nghệ thuật dân gian các dân tộc tỉnh Hòa Bình

Phần III: Giá trị văn hóa dân gian qua truyện cổ

(HBĐT)- Kho tàng truyện cổ của người Mường khá phong phú, được bà con kể cho nhau nghe, đời này truyền lại cho đời kia. Người Mường có những truyện liên quan đến những địa điểm cụ thể, nhân vật hay hiện tượng riêng của từng địa phương, mỗi vùng một vẻ. Cũng có những truyện mà tất cả những người Mường, vùng Mường đều biết. Có những truyện dài có nhiều tình tiết và được sắp xếp rất chặt chẽ, song cũng có những truyện ngắn kể về một sự tích nào đó mà thôi.

Phong phú kho tàng văn học, nghệ thuật dân gian các dân tộc tỉnh Hòa Bình 

Phần II: Truyền thuyết - Bộ sử thi của bản mường

(HBĐT)- Lọc từ bộ sử thi của người Mường và người Thái cũng có thể thấy được nhiều truyền thuyết của các dân tộc sống ở Hoà Bình. Người Mường, người Thái cũng như các dân tộc khác đều có những truyền thuyết gắn với các địa danh, những nhân vật, tín ngưỡng, phong tục... Vì gắn chặt với đời sống cũng như nơi cư trú của các dân tộc bản địa nên truyền thuyết thể hiện rất rõ tính bản địa. Nó bắt nguồn từ những hiện tượng, sự vật cụ thể, được con người sáng tạo ra phù hợp với lối tư duy, quan niệm của họ.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục