Không thể biết chính xác thời điểm hình thành các KDC của người Mường. Chỉ biết rằng, từ rất xa xưa nó đã tồn tại trong các thung lũng được khai khẩn thành ruộng cấy lúa, đồng bãi trồng màu. Đây là yếu tố khiến cho người Mường sớm định cư và rời bỏ tập quán du canh du cư, dù rằng vẫn còn một bộ phận cư dân sống bằng nghề làm nương, rẫy.
Canh tác lúa nước, chăn nuôi và một số ít làm nương rẫy chính là những yếu tố làm nên hình thái một làng Mường. Một làng Mường muốn tồn tại lâu dài phải có những yếu tố, điều kiện cơ bản sau: Nơi làm nhà, lập làng phải thuận theo địa hình, nước, gió...
Các KDC của người Mường thường tọa lạc trên những chân đồi thấp, gò đất thoai thoải, phía sau tựa vào núi, đồi hay các thế đất cao hơn đổ thoai thoải về phía trước. Nhà sàn đều hướng ra phía trước với những cánh đồng hay đất bãi dùng canh tác nông nghiệp, xa hơn thường có sông, suối chảy qua. Trong các bồn địa hoặc thung lũng, làng Mường thường ở trên mái đồi, con suối, sông chảy qua, đôi bờ được khai khẩn thành cánh đồng màu mỡ để canh tác nông nghiệp.
Làng Mường cổ truyền của người Mường là một tập hợp các nhà sàn với nhiều thế hệ sinh sống. Các hộ được phân chia như sau: Thứ nhất là nhà roóc (nhà nóc), chỉ một ngôi nhà sàn dùng cho các gia đình có một hay nhiều thế hệ cùng chung sống, thuộc tầng lớp trung lưu, khá giả, bất kể quý tộc hay nhà dân. Các nhà roóc trong xã hội cổ truyền Mường được hiểu là những hộ có sở hữu một số tư liệu sản xuất nhất định, như ruộng đất, trâu, bò, đồi, rừng... Thứ hai là nhà roóc tlọi (nhà nóc trọi), chỉ các gia đình nghèo không có tư liệu sản xuất, chuyên phải đi ở hay làm thuê để kiếm sống. Thứ ba là nhà tưở roọng, có nghĩa là nhà của người làm nương. Ba thành phần hộ gia đình trên là cơ sở quan trọng tạo nên các KDC của người Mường, các hộ nhà nóc, nóc trọi chủ yếu sinh sống trong các làng chiềng, làng trại, vốn là các vùng thung lũng có sông lớn chảy qua tạo nên đồng bằng màu mỡ. Các hộ gia đình tưở roọng sống nhiều ở làng chèw (làng chèo) và làng rộc trên các vùng núi cao hay thung rộc vùng sâu, vùng xa. Ba thành phần hộ người Mường kể trên chia làm hai giai tầng chính, đó là tầng lớp lang - đạo và tầng lớp dân thường. Ngoài cách phân loại kể trên, trước tháng 8/1945, các KDC được người Mường chia thành 4 loại hình chính: Làng Mường chiềng nay được nhiều nơi gọi tắt là làng chiềng, làng Mường chại (làng Mường trại), làng chèw và làng rộc.
Lát cắt hình thái xã hội Mường trước tháng 8/1945 được thể hiện rất rõ các làng Mường được phân chia chủ yếu thành các Mường lớn, Mường nhỏ.
Xã hội cổ truyền Mường trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có 2 giai tầng chính: Đó là tầng lớp trên (chỉ tầng lớp lang - đạo, quý tộc) và tầng lớp thường dân (chỉ dân Mường còn lại). Tầng lớp trung gian có chức sắc cộng đồng và chức sắc họ tộc Mường, đặc biệt là các họ tộc có gia tộc truyền đời làm nghề thầy mo, họ tự xưng mình là họ ngài, dạng họ này có ít trong xã hội Mường. Về bản chất họ vẫn thuộc tầng lớp dưới. Trong tầng lớp dân thường còn có một bộ phận nhỏ là các nhà roóc tlọi, thực chất là tầng lớp nông nô, không có tư liệu sản xuất, chuyên đi ở đợ trong các nhà giàu. Nhìn vào hình thái tồn tại và cấu trúc nội tại thấy rõ sự phân tầng rõ nét, mang dáng dấp của xã hội phong kiến phân quyền với khu biệt từng địa phương, địa hạt. Các làng Mường lớn, nhỏ đứng đầu là lang cun cai trị. Dưới các làng Mường nhỏ có các lang nhỏ (gọi là đạo) cai trị. Bên dưới nữa là các chức sắc Mường và các trưởng họ là những người đứng đầu các họ tộc, sau đó mới là dân Mường.
Lang - đạo là danh từ chỉ tầng lớp trong xã hội Mường, đóng vai trò vừa là tầng lớp trên vừa là đẳng cấp cai trị. Lang cun thường là các ông lang thuộc dòng trưởng, còn được dân gian Mường gọi bằng các danh từ khác như: Ông Chu, ông Chưởng, chuổ đất (chúa đất)... Lang thường và các đạo nhỏ thuộc dòng thứ. Chế độ nhà lang ra đời và tồn tại song hành cùng lịch sử người Mường.
Tầng lớp lang - đạo, đặc biệt là các lang cun, có quyền lực và đặc quyền rất lớn đối với người dân trong lãnh địa của mình, thể hiện qua tài sản, số lượng dân chúng có trong lãnh địa... Hình thức cai quản của lang - đạo với dân Mường gần như là sở hữu riêng. Lãnh địa Mường lớn gần như trở thành vương quốc riêng của lang cun.
Làng Mường cổ truyền còn tồn tại họ tộc của người Mường. Đó là tập hợp của nhiều gia đình, chi họ có chung huyết thống từ rất nhiều đời và cố kết, tập hợp nhau lại dưới sự tập hợp của đầu họ (trưởng họ và các chi trưởng).
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi dân số tăng nhanh, các hộ gia đình trong các họ tộc của người Mường tăng nhanh. Một họ tộc của người Mường thường không bó gọn trong một làng Mường mà các nóc (hộ gia đình), các chi hay phân chi thường sống rải rác ở nhiều làng Mường khác nhau.
Họ tộc, ổ nhà, con đá... là những cơ cấu của tổ chức họ tộc cổ truyền của người Mường với vai trò là tổ chức tự quản, từ tổ chức giúp đỡ, tương trợ..., dòng họ sẽ mãi tồn tại trong đời sống người Mường. Đây là nếp sống văn hóa, là một trong những nhân tố tạo nên bản sắc văn hóa Mường. Việc phát huy những giá trị tốt đẹp của họ tộc ngày nay rất cần được phát huy.
V.T (TH)