Điệu múa nón truyền thống đặc trưng của dân tộc Tày được sinh viên trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Tây Bắc trình diễn tại Nhà Văn hóa trong các hội diễn nghệ thuật quần chúng. Ảnh: M.H
(HBĐT) - Theo các tài liệu cổ viết bằng chữ Tày, trải qua hàng nghìn năm đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống cho mình, người Tày huyện Đà Bắc đã đúc rút được những kinh nghiệm quý giá, chẳng hạn như để dự báo thời tiết họ quan sát bầu trời về ban đêm: phá chi phận đạo chánh, phá chi lánh đạo chộm (Trời mưa sao tỏ, trời nắng sao mờ) hay: Cọp lếch nong, cọp tong lánh (Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa) hoặc: Phá lánh máu hộn, phá phận máu ọc (trời sắp mưa mối ra, trời nắng mối vào).
Trong quá trình canh tác, người nông dân tự rút ra cho mình quy trình sản xuất theo hiện tượng tự nhiên: Mạc túm xúc, đặm na, mạc sạ xúc nắm háy (mâm xôi chín cấy ruộng, quả gió chín trồng nương). Trong chăn nuôi, người Tày luôn chú ý đến khâu giống và thức ăn: danh mia danh mé nai, danh khoai, lắm mé tốn (chọn vợ xem bà mẹ, chọn trâu ngắm con đầu đàn) hay: Cắt nhá nhung thậng cán nạ, cắt nhá kha thậng cán kè (ăn cỏ tận gốc, nhai cỏ cả cuộng). Đây chính là tiêu chuẩn chọn giống của người xưa.
Trong những câu nói hay (khoam chiên, chiển lang) được chắt lọc qua thời gian, dân tộc Tày ở Đà Bắc có kinh nghiệm trong việc chọn thời vụ sản xuất: Xíp cọ đặm lá bàu sằm há cọ đặm cháu (Mười cây cấy muộn không bằng năm cây cấy sớm) hay: Đặm cháu xờ pà nhá cò pện đặm lá xờ buộc khoai bầu pện (cấy sớm vào đám cỏ cũng tốt, cấy muộn vào vũng trâu đằm không lên), để sắp xếp thời gian lao động: dạc kịn kháu hết háy thàng bạ, dạc kịn pạ hết chắng thàng báy (được mùa lúa làm nương tháng ba, muốn ăn cá làm chặng tháng bảy). Kinh nghiệm trong trồng trọt, chăn nuôi và cách ứng xử của con người với sản phẩm, thành quả lao động của mình: Non cháu từn sại, kịn lại mi nói (ngủ sớm dậy muộn, ăn nhiều thì nghèo) hay: Dạc kịn nha nắng, dạc hắng nha non (muốn có ăn đừng ngồi rồi, muốn giàu ngủ ít)…
Về mối quan hệ giữa con người với nhau trong gia đình và xã hội có rất nhiều câu lưu truyền đến nay vẫn nguyên giá trị: Kịn phài ngằm, hắm phài danh (ăn rồi phải nghĩ, đẽo cây phải ngắm), Côn pục kèn đị lại, côn giải khoam côn hái (người gieo hạt người ngay, kẻ đặt lời kẻ xấu) hay: Pí nóng tí nạ, lung tạ tí càu (anh em nhiều chỉ, đằng ngoại nhiều nhánh) trong quan hệ anh em ruột thịt thường có câu: ống mư cò nặng, X.lặng mư có chín (lòng bàn tay cũng thịt, mu bàn tay là da), vì thế đứt chỗ nào cũng đau. Trong cộng đồng người Tày, những người lớn tuổi và có học thức được tôn trọng nhất: Pó bán mé mương (bố bản, mẹ mường) và các cụ cũng dạy con cháu: Khoam chiển lang bàu vang xịa đáy (lời người xưa chớ có bỏ qua).
Do khuôn khổ bài viết nên chưa đề cập đến nghệ thuật dùng từ, cách gieo vần rất chỉn chu, chau chuốt kỹ càng, phương pháp so sánh, ẩn dụ thâm thúy của người xưa.
Kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, quán ngữ của dân tộc Tày rất phong phú và đồ sộ đã được kiểm nghiệm, chắt lọc qua thời gian cho đến nay vẫn được xem là những kinh nghiệm quý giá, những lời khuyên răn bổ ích. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà nhân dân trong vùng chưa được tiếp cận. Mặt khác, tác giả dân gian chỉ ghi bằng chữ Tày cổ hoặc truyền miệng, việc sưu tầm, cập nhật và xuất bản hầu như chưa có gì.
Đức Chôm
(Trung tâm HTCĐ xã Trung Thành - Đà Bắc)
(HBĐT) - Bản Lác thuộc thung lũng Mai Châu, tỉnh Hoà Bình, là bản dân tộc ở tỉnh Hoà Bình với những phong tục tập quán đặc sắc.
(HBĐT) - Tên gọi hay việc đặt tên địa danh, tên cho các KDC của người Mường trước tháng 8/1945 rất đa dạng, phong phú, song tựu chung lại đều được đặt hết sức tự nhiên tùy theo địa hình, địa vật nơi đó hoặc chỉ cần căn cứ vào các đặc điểm hay các cây bản địa phổ biến mang tính đặc trưng cho khu vực đó. Song cũng có những làng mường được đặt tên theo dạng tên chữ, tất nhiên là chữ trong văn bản của Nhà nước phong kiến đặt cho các KDC của người Mường để nhằm mục đích quản lý hành chính và thu thuế khóa, song các tên gọi này thường rất xa lạ với chính người dân nơi đó nên nó không sống được trong giao tiếp, ứng xử và gọi tên trong dân gian Mường.
(HBĐT) - Qua thị trấn Mai Châu đến đầu xã Chiềng Châu, mỗi lần đi qua đây tôi đều chú ý đến một cây thị. Nhìn từ xa cây đứng sừng sững giữa đất, trời và chứng kiến bao thăng trầm của mảnh đất này. Nhiều người bảo cây thị là hồn của người Mai Châu. Dù đi đâu, những người sinh ra và lớn lên ở đây cũng nhớ về cây thị.
(HBĐT) - Hang Chùa còn có tên là: Văn Quang Động, Chùa Hang là tên th¬ường gọi của ngôi chùa được xây dựng trong động Văn Quang, xưa kia chùa có tên chữ là: Thanh Lam Tự. Di tích Chùa Hang và Hang Chùa cách trung tâm thành phố Hoà Bình khoảng 85 km về phía Nam, cách thị trấn Hàng Trạm, huyện Yên Thuỷ khoảng 5 km, cách thị trấn Nho Quan tỉnh Ninh Bình khoảng 13 km.
(HBĐT) - Năm 2011, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tiến hành thực hiện Đề tài khoa học “Điều tra văn hóa phi vật thể dân tộc Tày huyện Đà Bắc”. Kết quả đã thu thập được rất nhiều tư liệu về văn hóa dân gian truyền thống của nhóm người Tày ở huyện Đà Bắc. HBĐT xin giới thiệu bài viết từ Trang thông tin điện tử của Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hòa Bình giới thiệu về một số nét văn hóa tiêu biểu của người dân tộc Tày huyện Đà Bắc.
(HBĐT) - Hội thảo khoa học về Không gian văn hóa cồng chiêng Mường tổ chức tại Hòa Bình trong dịp tỉnh tổ chức Lễ hội văn hóa cồng chiêng lần thứ I. Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và nghệ nhân đã tham dự với những tham luận và đề xuất với các cơ quan chuyên ngành quản lý Văn hóa Du lịch lịch sử, giá trị văn hóa cồng chiêng của người Mường nhằm phát huy di sản quý báu này của dân tộc Mường – một trong số những dân tộc cổ truyền và chiếm số lượng lớn ở nước ta. Báo HBĐT xin giới thiệu bài viết của tiến sĩ Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á.