Hang Chùa được xếp hạng là di tích danh thắng cấp quốc gia.
(HBĐT) - Hang Chùa còn có tên là: Văn Quang Động, Chùa Hang là tên th¬ường gọi của ngôi chùa được xây dựng trong động Văn Quang, xưa kia chùa có tên chữ là: Thanh Lam Tự. Di tích Chùa Hang và Hang Chùa cách trung tâm thành phố Hoà Bình khoảng 85 km về phía Nam, cách thị trấn Hàng Trạm, huyện Yên Thuỷ khoảng 5 km, cách thị trấn Nho Quan tỉnh Ninh Bình khoảng 13 km.
Gọi là Hang chùa vì tại 4 động ở núi này thì có tới 2 động có chùa ở trong đó. Vẻ đẹp của hang động không những chỉ được chùa tô điểm mà tự thân những hang động này cũng có những vẻ đẹp mà các bài ký, bài thơ của người xưa ghi lại trên vách đá đến nay còn nguyên giá trị. Núi Chùa Hang nằm giữa cánh đồng thuộc thôn Đồng Mai, núi Đọc và thôn Á Đồng, xã Yên Trị, huyện Yên Thuỷ. Chùa Hang- Hang Chùa là di tích lịch sử - văn hoá, kiến trúc nghệ thuật, tôn giáo và danh lam thắng cảnh.
Chùa hang 1:
Du khách có thể men theo đường lát đá phiến bao gồm 53 bậc để đặt chân lên sân chùa ở bên tay trái, chùa nằm trong một ngách của hang 2. Trước cửa chùa là một khoảng sân rộng 6m, dài 16m, hai bên được bó nền bằng hai lớp đá phiến xanh có thể trải chiếu để ngồi. Đặc biệt khi bước vào chùa ta gặp ngay một bàn cờ được khắc ngay trên đá hình vuông (56 x 56cm) hàng năm vào ngày 15 tháng giêng dân làng mở hội, ở đây diễn ra thi đấu cờ.
Chùa được xây dựng có kết cấu hình chữ nhất (-), có chiều dài 3m; chiều rộng 3,14m; cao 4,10m, với cấu trúc cột cái, cột quân, cửa bức bàn phía trước, phía sau và ván bưng xung quanh chùa đều bằng gỗ. Chùa được xây dựng từ lâu đời và được tôn tạo lại vào thời nhà Nguyễn ở trên thượng lương chùa có ghi dòng chữ: “Hoàng triều Khải Định Nhâm tuất niên” (Khải Định năm Nhâm Tuất 1892).
Chùa hang 2:
Từ cửa hang chùa 1 rẽ phải khoảng 5 - 6m là đến hang thứ 3 là đến Chùa Hang 2 (theo cách gọi của nhân dân đại phương). Nhìn tổng thể Chùa Hang 2 cũng được xây dựng có kết cấu như chùa Hang 1, với kiến trúc hình chữ nhất (-), gồm có bốn hàng cột cái cao 2,81m; cột quân cao 2,38m, ngôi chùa đứng án ngữ trước cửa hang thứ 3. Chùa hang 2 cũng có kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ, kể cả mái lợp. Theo nhân dân địa phương Chùa Hang 2 được xây dựng từ lâu và được trùng tu tôn tạo lại vào năm thời nhà Nguyễn. Hiện trên thượng lương chùa có ghi dòng chữ năm trùng tu: “Đại
Chùa Hang 1 và Chùa Hang 2 là những công trình kiến trúc mà người xưa đã lợi dụng địa thế mái vòm của hang đá để xây dựng công trình kiến trúc gỗ ngôi chùa ở bên trong hang, vì mái đá, vòm hang có sức bền để chống đỡ mưa nắng. Nhưng trong tâm niệm về tín ngưỡng tôn giáo, người xưa vẫn muốn điểm tâm kiến trúc thành ngôi chùa với đầy đủ các hạng mục như công trình đứng ngoài trời để bảo vệ tượng pháp và di vật cổ, đồng thời cũng tạo thêm vẻ trang nghiêm, trầm mặc, mà sức mạnh và đường nét bố cục của kiến trúc tạo nên.
Chùa Hang được xây dựng trong hang thứ 2, có kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ, trong chùa có hệ thống tượng phật được tạc từ thế kỷ 18 đây là một di sản độc đáo đối với di tích tỉnh Hoà Bình, trên những bức cốn là những đường nét hoa văn được chạm trổ cầu kỳ mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Hang chùa:
Xưa nay khách tham quan, vãn cảnh Hang Chùa đều trầm trồ thán phục bốn chữ Hán được khắc trên vách núi: “Lăng tiêu tiếu bích” nghĩa là: Ngọn núi biếc cao vút, sương phủ mờ ảo.
Người xưa cũng để lại bài thơ ca ngợi Động Văn Quang được khắc trên vách đá như sau:
Thanh cao nhất động chấn hùng quan
Vạn khoảng thiên thai, tứ hoạ hoàn
Biệt ái Văn Quang, khai nhãn phúc
Bút phùng hoành tả toại danh sơn
Kải Định nhâm tuất niên nhuận ngũ nguyệt niệm ngũ nhật
Thiếu phượng nguyệt Nguyễn Diệp Quảng
Dịch nghĩa:
Hang động thanh cao chấn giữ cảnh quan hùng vĩ
Muôn trùng ngàn núi bốn phương điểm hoạ
Quý nhất bệ Văn Quang toả ngàn ánh phúc
Đa bút đề thơ đưa lên danh núi
Ngày 5 tháng 5 nhuận năm Khải Định Nhâm tuất (1922)
Thiếu phượng nguyệt Nguyễn Diệp Quảng.
Dịch thơ:
Hang động thanh cao giữa hùng quan
Bốn phương chen đứng chập trùng san
Bệ Văn Quang ngời ánh phúc
Đa bút về thơ tạc núi non.
Bài ký được khắc ở đây ghi rằng: Núi này cách phía tây Phủ Thành 10 dặm, có thế cánh loan đầu phượng, phía Tây nam là núi Bích xanh trong cao vút tựa sừng hươu. Bốn năm động trời xanh sáng mát lành, thể như sáu tháng thu liền...đường đá mới tinh, vẻ núi như cười reo, khí núi càng anh linh tất thẩy đều thanh khiết. Người về phủ huyện khách vãng lai đều qua Yên Trị, Phú Lai chẳng ai không biết có chùa Thanh Lam và lời di truyền lại đẹp đẽ nhường bao. Vàng thiếp sơn son rờ rỡ, nét bút hào hoa như đào nở trên non, gió lành mưa móc mỹ lệ phong quang, cả núi như mừng reo, ngưỡng vọng ý tiên quân, muôn dân thừa hưởng.
Đó là bài ký (có toàn văn bản dịch) của tú tài Chu Xuân Tụng người xã Lãng Phong vâng viết theo Đắc công Phó tổng Bùi Văn Quyền, được khắc vào năm Thành Thái thứ 2 (1890).
Một bài ký trên bia thứ 2 cũng được khắc trên vách động có đoạn:
“Một ngọn núi biệt lập cao vút có ngàn đỉnh khác quây tụ sừng sững chấn giữ, nửa núi có 4 động, trên thông ra đón ánh mặt trời, dưới ngầm quanh co như ruột dê, nhũ đá rủ hình phượng, long, lân kì dị. Trong động có bệ đá làm nơi thờ Phật...
Theo các nhà khảo cổ học thì Hang Chùa cũng là nơi phát hiện ra dấu vết khảo cổ học thuộc nền “Văn hoá Hoà Bình”. Trong hang 2 và hang 3 người ta đã tìm thấy các trầm tích hoá thạch thức ăn của người xưa như vỏ ốc, vỏ sò, mảnh công cụ...
Vào thời Trung đại dấu tích văn hoá cũng để lại ở đây khá đậm nét đó là quả chuông đồng được đúc vào năm Cảnh Hưng thứ 44 (năm 1783). Người xưa cũng để lại ở đây 2 dòng chữ đại tự, 1 bài thơ, 2 bài ký, một bia đá. Đó là những văn tự thành văn rất hiếm hoi ở các di tích hang động của tỉnh Hoà Bình hiện nay.
HBĐT tổng hợp
(HBĐT) - Sự phân bố dân cư Mường ở Hòa Bình gắn liền với nguồn gốc lịch sử, môi trường tự nhiên của khu vực cũng như tập quán sản xuất và sinh hoạt của dân tộc Mường.
(HBĐT) - Nhà máy được xây dựng trren sông Đà tại thành phố Hòa Bình, cách thủ đô Hà Nội 76 km về phía tây (cách thành phố Hòa Bình 2 km về phía tây bắc).
(HBĐT) - Thời gian thấm thoắt trôi đi, mới đó mà đã 65 năm, kể từ ngày chỉ huy mặt trận miền Tây, Tư lệnh chiến khu là thiếu tướng Hoàng Sâm và phái viên Chính phủ (cố vấn) Lê Hiếu Mai dẫn đầu các đoàn quân lên Hòa Bình, Mộc Châu (Sơn La), Sầm Nưa, Hủa Phăn nước bạn Lào… giữ yên biên giới Việt - Lào và Việt - Trung, một vùng Tây Bắc rộng lớn của nước ta.
(HBĐT) - Sau chiến thắng Biên giới (23/10/1950), ta chủ động chuyển sang tiến công địch trên khắp các chiến trường, quyền chủ động về chiến lược của địch trên chiến trường Bắc Bộ đã mất. Tuy lực lượng của địch trên chiến trường Đông Dương còn đông (gần 25 vạn tên) nhưng không đủ để làm nhiệm vụ chiếm đóng và cơ động. Để gỡ thế bí, địch phải điều chỉnh lại thế trận, rút 29 vị trí ở hữu ngạn sông Hồng, trong đó có hàng loạt vị trí ở Hòa Bình về phòng thủ đồng bằng Bắc bộ. Ngày 8/11/1950, địch rút chạy khỏi Hòa Bình, “Bức tường thép bên sông Đà” bị sụp đổ, Hòa Bình được giải phóng lần thứ nhất.
(HBĐT) - Cuối tháng 1/1945, để phong trào cách mạng ở Hoà Bình tiến lên, T.ư Đảng thành lập Ban Cán sự Đảng tỉnh gồm 2 đồng chí: Vũ Thơ và Vũ Đình Bản, cử đồng chí Vũ Thơ làm Bí thư Ban Cán sự Đảng. Tháng 5/1945, đồng chí Vũ Thơ thay mặt Ban Cán sự Đảng kết nạp 3 đảng viên: Nguyễn Đình Khanh, Phùng Thị Hán, Đỗ Văn Phạn, lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở thị xã Hoà Bình, chỉ định đồng chí Nguyễn Đình Khanh làm Bí thư chi bộ.
(HBĐT) - Trên dòng suối Vó Đuống, Vó Cối (xã Bình Chân, huyện Lạc Sơn) có một hòn đá giống con trâu nửa nằm, nửa ngồi, ghếch mõm lên trên mặt nước. Phần mõm ghếch lên ấy có một lỗ thủng tựa như mũi con trâu. Ngày lễ cầu mưa, người có chức vị cao nhất Mường trèo lên lưng trâu đá, tay cầm thừng, tay cầm mõ, rung liên hồi, miệng hô to: “mưa, mưa, mưa”. Tất cả mọi người dự lễ hô theo “mưa rồi, mưa rồi”.