Nhiều mặt hàng nông sản Việt xuất khẩu thuộc top đầu thế giới nhưng giá trị đem lại vẫn còn khá thấp
Xuất khẩu nhiều nhưng giá trị thấp
Tại hội nghị trực tuyến toàn quốc và triển lãm quốc gia Tổng kết 10 năm thực hiện nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn diễn ra chiềuy 26/11, đại diện Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD) cho biết, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh trong vòng 10 năm qua. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tăng từ 16,484 tỷ USD năm 2009 lên mức 36,37 tỷ năm 2017.
Đáng chú ý, trong gia đoạn từ 2008-2017, Việt Nam luôn là nước xuất siêu nông sản với mức xuất siêu bình quân 8 tỷ USD/măm.
Song, theo IPSARD, mặc dù xuất khẩu có sự tăng trưởng mạnh, nhưng nông lâm thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô, tươi hoặc qua sơ chế, xuất khẩu chế biến sâu chiếm tỷ lệ rất thấp. Theo đó, một số mặt hàng nông lâm thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu đứng top đầu thế giới, song giá trị thấp.
Cụ thể, hạt tiêu Việt xuất khẩu xếp thứ hạng số 1 thế giới nhưng giá trị xuất khẩu chỉ đứng thứ 8; hạt điều cũng đứng thứ nhất thế giới, giá trị đứng thứ 6; gạo, cà phê đứng trong nhóm thứ 2 nhưng giá trị xuất khẩu chỉ đứng thứ 10.
Đại diện IPSARD nhận định, là một trong những nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu nông sản, tuy nhiên có đến hơn 80% lượng nông sản của Việt Nam chưa xây được xây dựng thương hiệu, chưa có logo, nhãn mác,... Điều này là bất lợi lớn, làm giảm sức cạnh tranh của các loại nông sản trên thị trường, gây thiệt hại lớn cho ngành nông nghiệp.
IPSARD dẫn số liệu thống kê của Cục Sở hữu công nghiệp (Bộ KH&CN), trong hơn 90.000 thương hiệu hàng hoá được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam, mới có khoảng 15% là của các doanh nghiệp trong nước và có đến 80% hàng nông sản của nước ta được bán ra thị trường thế giới thông qua các thương hiệu nước ngoài.
Điểm yếu nữa là nông sản Việt đã tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu nhưng mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp đầu vào dưới dạng nông sản thô, trong khi giá trị gia tăng đối với hàng nông sản lại chủ yếu do khâu chế biến, bao gói và hoạt động thương mại. Nguyên nhân của tình trạng này là công nghệ trước và sau thu hoạch còn lạc hậu, việc tham gia chuỗi từ khâu sản xuất, chế biến đến marketing, phân phối và tiêu thụ còn hạn chế...
"Vấn đề là nông sản Việt chưa có một đơn vị cá nhân hay cơ quan chủ quản nào đứng ra để có thể xây dựng thương hiệu dưới 1 cái tên riêng nào đó của Việt Nam. Ngoại trừ ngành lúa gạo, năm 2018, Bộ NN-PTNT đang chủ trì xây dựng thương hiệu gạo quốc gia”, vị này cho hay.
Trong khi đó, các chuyên gia trong ngành nhận định, vì yếu kém trong khâu chế biến sau thu hoạch nên dù xuất khẩu đứng top đầu thế giới nhưng giá trị đem lại thấp và người nông dân được hưởng lợn rất ít nếu không muốn nói đến là vẫn còn nghèo.
Bài học từ Nhật Bản bán quả xoài 850.000 đồng/quả
Trái ngược với cảnh bán tống bán tháo hay được mùa thì mất của của nông sản Việt, chia sẻ tại hội nghị trực tuyến - chuyên đề "Thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn”, ông Hiroshi Matsuura - Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, cho rằng cần tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản, nâng cao lợi nhuận cho người nông dân.
Ông dẫn chứng, ở Nhật Bản, nông dân bán một quả xoài với giá 4.000 Yên (khoảng 850.000 đồng). Thế nhưng, để có được mức giá thành cao như vậy, xoài ở Nhật được trồng theo một tiêu chuẩn khắt khe, trái trên cây rất to và chỉ thu hoạch sau khi quả đã chín ở trên cây, tuyệt đối không thu hoạch lúc xanh non. Sau thu hoạch, trái xoài được bọc trong lớp lưới xốp, đóng trong hộp để đảm bảo trong quá trình vận chuyển đến nơi tiêu thụ không bị thối hỏng.
Năng suất cao nhưng yếu kém khâu chế biến dẫn đến người nông dân được hưởng lợn ít nhất
"Tại Việt Nam ai sẽ mua xoài giá cao? Là những người có tiền ở thành phố. Vậy làm sao vận chuyển đến tay người tiêu dùng”, vị đại sứ Nhật đặt câu hỏi và cho biết, cần đầu tư về hạ thầng vận chuyển, đảm bảo nơi bán hàng, bởi điều này sẽ quyết định đến chất lượng hàng hoá.
Song, theo ông vấn đề quan trọng hơn để nông dân có được lợi nhuận lớn thì nông dân phải hoàn thiện cơ sở vật chất cho việc trữ hàng.
Ông cho hay, ở Nhật Bản táo chỉ có theo mùa, nhưng sau khi thu hoạch nông dân cho táo vào bảo quản trong kho trữ lạnh của mình theo công nghệ CA (phương pháp giúp hạn chế hô hấp khiến trái cây tươi lâu), từ đó đưa ra thị trường một lượng vừa phải, giữ được giá sản phẩm và người Nhật cũng được ăn táo quanh năm.
Ở Việt Nam có quả vải rất ngon, nhưng chỉ bán tươi lúc vào vụ nên giá trị chưa cao, lúc hết mùa muốn được ăn vải tươi cũng không thể. Nếu có thể áp dụng cách làm như nông dân Nhật với quả vải hay những loại quả khác thì sẽ tạo ra lợi nhuận cao cho nông dân vì họ điều tiết được giá cả thị trường.
Nhưng theo ông, người nông dân chỉ được hưởng lợi lớn nếu họ có cơ sở trữ lạnh vì từ sản xuất sẽ qua khâu trữ lạnh và đến thị trường, tức sẽ bớt được khâu trung gian. Còn nếu cơ sở trữ lạnh do bên thua mua nắm giữ thì lợi nhuận cao nhất sẽ thuộc về bên thua mua chứ không phải người nông dân. Khi ấy, nông dân sẽ khó cải thiện được cuộc sống của mình.