Xét nghiệm tìm khuẩn lao.

Xét nghiệm tìm khuẩn lao.

Ở trẻ em, bệnh lao chiếm tỷ lệ 10 - 15% trong số những trường hợp bệnh lao mới mắc hàng năm. Trẻ em có thể bị mắc tất cả các thể lao, tuy nhiên, thường gặp hơn cả là 4 thể: Lao sơ nhiễm hay lao khởi đầu; lao cấp tính như lao màng não và lao kê; lao hô hấp sau sơ nhiễm như lao phổi và lao màng phổi; lao ngoài phổi: có nhiều loại như lao hạch, lao xương khớp, lao cột sống, lao màng bụng, màng tim, lao niệu - sinh dục, lao ruột...

Lao sơ nhiễm: Thường gặp nhiều nhất. Có thể gặp ở trẻ từ 0-14 tuổi, nhưng thường xảy ra ở trẻ dưới 5 tuổi và không tiêm phòng BCG. Biến chứng tại chỗ và ở xa càng nặng nếu trẻ càng nhỏ. Sơ nhiễm lao thông thường không có triệu chứng hoặc có triệu chứng cảm cúm thoáng qua hay nóng sốt mệt mỏi, chán ăn hoặc ít khi có triệu chứng giống như thương hàn, sốt cao, mệt mỏi nhưng không rối loạn tiêu hóa.
 
Có trường hợp có biểu hiện ở niêm mạc và ngoài da như: hồng ban nốt nổi 2-3 đợt hay viêm kết giác mạc. Triệu chứng của lao sơ nhiễm rất mơ hồ, giống như biểu hiện của bệnh viêm đường hô hấp nên khó chẩn đoán, dễ bị bỏ sót. Trẻ có thể tự khỏi nếu lao sơ nhiễm tiến triển nhẹ và sức đề kháng của trẻ cao.
 
Lao cấp tính, trong đó lao màng não, lao kê cấp tính là 2 biến chứng nặng và sớm của sơ nhiễm lao dễ đưa đến tử vong nếu không được chẩn đoán, điều trị sớm và để lại di chứng trầm trọng nếu chẩn đoán trễ. Vi khuẩn lan truyền theo đường máu từ tổn thương ban đầu.
 
Bệnh lao là bệnh gây ra do lây nhiễm. Ở trẻ em, phần lớn là bị lây nhiễm từ những người thân trong gia đình. Khi người bị bệnh lao ho, vi khuẩn lao có trong đờm sẽ đi trực tiếp vào đường hô hấp của người đối diện và làm lây bệnh. Ngoài ra, nếu người mắc bệnh khạc nhổ bừa bãi, các vi khuẩn có trong đờm sẽ theo gió phát tán vào không khí làm lây cho người xung quanh.
 
Vì vậy, để đề phòng cho trẻ, nếu trong nhà có người bị bệnh lao cần phải cách ly trẻ với người bệnh. Người bị bệnh lao nên có ý thức để hạn chế sự lây lan của bệnh: không ho, khạc đờm bừa bãi; tránh tiếp xúc, hôn hít trẻ nhỏ cho đến khi khỏi bệnh hoàn toàn.
Bệnh có thể xảy ra ở các lứa tuổi, nhưng nhiều nhất ở trẻ nhỏ không tiêm vaccin BCG, trẻ dưới 2 tuổi. Trẻ càng lớn thì tần suất mắc bệnh càng ít. Lao màng não xảy ra từ 2-12 tháng sau sơ nhiễm lao, báo hiệu với triệu chứng sốt nhẹ, thay đổi tính nết. Sau đó 1 tuần, sốt 380C, nhức đầu, ói mửa, khám thấy có cứng cổ và đôi khi có dấu hiệu tổn thương thần kinh, co giật, hôn mê, lé mắt, động kinh, sụp mí mắt.
 
Nếu chẩn đoán chậm đưa đến di chứng nặng như di chứng tâm thần (thiểu năng trí tuệ, rối loạn tính tình, động kinh); yếu liệt nửa người, tay chân co rút, mù mắt, điếc... Lao kê là lao cấp ở phổi, xuất hiện trong những tuần lễ đầu sau sơ nhiễm lao với triệu chứng sốt cao, mạch nhanh, ói mửa, đau bụng, tiêu chảy, không có nốt hồng ban trên bụng (khác thương hàn) và luôn luôn có dấu hiệu hô hấp khó thở, tím tái. Trẻ bị lao kê thường dễ dẫn đến lao màng não.
 
Lao đường hô hấp sau sơ nhiễm ở trẻ nhỏ thường gặp ở trẻ lớn, gần tuổi dậy thì hơn là trẻ nhỏ, bao gồm: Lao màng phổi (hiếm gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, thường xảy ra ở trẻ lớn, 6 tháng sau sơ nhiễm lao) với triệu chứng mệt, sút cân, ho, đau tức ngực, Xquang phổi cho thấy tràn dịch; lao phổi với triệu chứng sốt nhẹ về chiều, mệt, chán ăn, sút cân, tức ngực, ho có đờm hay có máu. Lao phổi: Ít nhiều tùy theo tuổi khi bị sơ nhiễm lao, chỉ 4% khi sơ nhiễm ở trẻ em dưới 5 tuổi và xảy ra khi trẻ em lớn hơn 10 tuổi. Trái lại, 10% ở trẻ em lớn từ 12-14 tuổi bị sơ nhiễm và lao phổi xảy ra từ 1-2 năm.
 
Triệu chứng: sốt nhẹ về chiều, mệt, chán ăn, gầy, tức ngực, ho đờm hay có máu. Xquang phổi chia làm 2 loại: (1) Lao phổi không có hang: dạng nốt riêng rẽ hay kết hợp thành đám thâm nhiễm. (2) Lao phổi có hang: có hang tròn, nối liền rốn phổi với ống dẫn. Hay thường kết hợp với nốt, đám thâm nhiễm hay thường có kết hợp tổn thương màng phổi hay hạch trung thất. Chẩn đoán chính xác bằng tìm vi khuẩn lao trong đờm hay trong dịch dạ dày 3 ngày liên tiếp (soi trực tiếp và cấy).

Lao ngoài phổi: thường là biến chứng chậm hơn sau sơ nhiễm lao. Có nhiều dạng lao ngoài phổi như lao cột sống: giai đoạn đầu thường trẻ có biểu hiện đau vùng cột sống rồi từ từ gù lưng; lao xương, khớp: trẻ bị sưng đau khớp và chảy mủ ở xương khớp rò ra ngoài da; lao hệ niệu: trẻ có triệu chứng đi tiểu ra máu, thường có kèm theo sưng tinh hoàn nếu là bé trai; lao hạch: nổi hạch thường từng chùm, dính, nếu để trễ sẽ gây rò mủ làm sẹo xấu; lao ruột: đi tiêu lỏng hoặc đi tiêu ra đàm, máu kéo dài.

Ở trẻ em, việc chẩn đoán lao, tìm ra vi trùng lao thường khó hơn so với người lớn vì triệu chứng lâm sàng thường mờ nhạt nên dễ bị nhầm với các bệnh lý khác. Ngay cả bản thân trẻ bị lao phổi cũng khó tìm ra vi trùng lao vì trẻ chưa hoặc không biết khạc đờm. Đối với lao sơ nhiễm, trẻ có những triệu chứng, biểu hiện giống như bệnh cảnh viêm đường hô hấp nên rất khó chẩn đoán. 

Về điều trị lao ở trẻ em cũng giống như của người lớn, tuy nhiên, phụ huynh phải tuân thủ điều trị cho con em mình đúng với hướng dẫn của thầy thuốc, điều trị đủ thời gian (6-9 tháng), đủ liều lượng thuốc, đúng phác đồ thì bệnh mới ổn định. Bệnh lao trẻ em có thể chữa lành được với hóa trị lao ngắn ngày, kể cả các thể nặng nếu được chẩn đoán sớm và điều trị đúng nguyên tắc (uống thuốc đúng, đủ, đều và không được bỏ sót).

Để phòng bệnh, sau khi sinh 3 ngày, trẻ phải được tiêm vaccin BCG phòng lao. Khoảng 1 tháng sau, nếu không thấy sẹo BCG ở cơ delta thì phải đưa trẻ đến các cơ sở y tế chuyên khoa để thử phản ứng IDRR. Trường hợp kết quả thử là âm tính thì cần cho trẻ tiêm lại vaccin phòng lao. Nhưng dù đã tiêm phòng lao, ở thời kỳ chưa có miễn dịch, không nên để trẻ tiếp xúc với nguồn lây. Ngoài tiêm BCG, trẻ cần được tiêm chủng đầy đủ các loại vaccin phòng bệnh và có chế độ nuôi dưỡng thích hợp với từng lứa tuổi.

Khi trẻ có triệu chứng nghi bị lao (ho sốt kéo dài, sút cân hoặc không lên cân, ra mồ hôi trộm...), cần đưa ngay đến cơ sở y tế chuyên khoa để khám và điều trị đúng theo công thức của chương trình chống lao quốc gia, đảm bảo theo nguyên tắc DOST (hóa trị liệu ngắn ngày có kiểm soát).      

 

                                                                   Theo Báo SKĐS   

Các tin khác

Không có hình ảnh
Không có hình ảnh
Không có hình ảnh
Năm 2011, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở tỉnh ta giảm còn 21,4%. ảnh: Trạm y tế xã Xuất??Hóa (Lạc Sơn) thực hiện theo dõi tăng trưởng của trẻ.                             
ảnh: Kim Tuất (TTV)

Hỗ trợ người nghèo khám, chữa bệnh

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 14/2012/QÐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 139/2002/QÐ-TTg về khám, chữa bệnh cho người nghèo.

Chính thức điều chỉnh giá gần 500 dịch vụ y tế từ giữa tháng Tư

Liên bộ Y tế- Tài chính vừa ban hành thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT- BYT- BCT ban hành mức tối đa khung giá một số dịch vụ khám, chữa bệnh trong các cơ sở khám, chữa bệnh Nhà nước.

Lộ thông tin họp kín, Thứ trưởng Bộ Y tế đề nghị làm rõ

Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang vừa gửi đơn lên Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan TƯ, phản ánh về việc lộ thông tin mật ra báo chí về kết quả kiểm phiếu trong buổi họp xem xét kỷ luật ngày 16/02/2012 của Thường vụ Đảng ủy Bộ Y tế.

Lạc Sỹ (Yên Thủy): Quan tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân

(HBĐT) - Với năng lực chuyên môn cán bộ y tế ngày càng nâng lên, cơ sở vật chất được tăng cường, chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu ở xã vùng sâu Lạc Sỹ (Yên Thủy) gần đây có sự cải thiện đáng kể, đáp ứng nhu cầu của người dân.

Tiểu đường mãn tính sẽ làm tăng nguy cơ đột quỵ

Theo một nghiên cứu mới đăng ngày 1/3 trên trang web tạp chí Stroke của Hiệp hội tim mạch Mỹ, thời gian bị tiểu đường càng lâu thì nguy cơ bị đột quỵ càng lớn.

Lời khuyên của thầy thuốc Cẩn thận khi ăn thịt quá nạc

Nghe nói, nếu ăn nhiều loại thịt lợn được nuôi bằng thức ăn tăng trọng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Xin hỏi điều này có đúng không và cách lựa chọn thịt lợn an toàn như thế nào? Chị Hoàng Minh (Gia Lâm)

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục