Ruộng bậc thang tại xã Quý Hòa (Lạc Sơn).
(HBĐT) - Như bao người con khác của núi rừng, sau 5 năm về đồng bằng học đại học, tôi lại trở về với quê hương miền núi công tác. Ngày lại ngày đi dưới bóng núi, trước mắt tôi thấp thoáng những chân ruộng bậc thang. Mải miết với những lo toan nơi xưởng máy, công sở để kiếm sống, tôi dửng dưng trước những chân ruộng bậc thang đó. Có gì đâu, những lô đất có từ ngày xưa, vẫn là ba màu lặp đi lặp lại: màu nâu, màu xanh, màu vàng. Hết cày lại cấy, gặt.
Nhưng nhiều lần đi công tác qua các tỉnh miền núi, nhất là Tây Bắc, những chân ruộng bậc thang ấy cứ ám ảnh tôi suốt dọc những nẻo đường xuôi ngược. Lại còn văng vẳng trong tôi những câu thơ: “Em ơi quê ta đó - Thấp thoáng trong sương - Ruộng bậc thang cuốn vành khăn… Cô gái Mèo núi Chát…” (Ruộng bậc thang - Đinh Lằm). Lần theo những câu thơ ấy tôi đã đến với tác giả của nó, nơi đất Phù Yên - Sơn La; ngồi uống rượu với nậm pịa cùng nhà thơ Đinh Lằm. Ngày ấy đã xa lắm rồi, có lẽ trên bốn mươi mùa lúa chín. Nhất Thanh - nhì Lò - tam Uyên - tứ Tấc. Mường Tấc chính là cánh đồng Phù Yên của Đinh Lằm. Đó là một trong bốn vựa lúa nổi tiếng của Tây Bắc. Xâu chuỗi bốn vựa lúa nổi tiếng ấy là những con đường liên tỉnh, liên huyện như những đường chỉ thêu trên váy áo người con gái ngày hội. Dọc những con đường ấy là những vạt ruộng bậc thang, lúc bên này, lúc bên kia sườn núi. Ruộng bậc thang của người Thái, người Tày, người Mường ở vùng đồi thấp thường rộng hơn ruộng bậc thang của người Dao, người Mông ở vùng núi cao. Đất càng dốc, ruộng bậc thang càng hẹp, càng dài như cánh ná, mảnh mai như lá lau, lá lúa, bờ ruộng phía trên cao quá tầm tay với. Ruộng chồng lên ruộng như những lát bánh chưng xanh, như những khoanh giò lụa ngày tết, ngày cưới. Ai đã lên
Hồi nhỏ, theo gia đình tản cư vào rừng, tôi đã phát nương làm rẫy. Nương rẫy mà cây lúa, cây ngô tươi tốt là nương rẫy mùa đầu, có nhiều tro than do phát vào rừng có nhiều cây cối. Chọc lỗ, bỏ hạt là giống lúa nương chịu hạn. Mỗi khi mùa mưa lũ tới nhìn xuống sông, xuống suối thấy phù sa cuồn cuộn xuôi về với đồng bằng và lại thấy dưới chân mình tro than theo mưa lũ vợi dần. “Bốn mươi giống lúa nà, ba mươi giống lúa nương” mà đói vẫn hoàn đói, nghèo vẫn hoàn nghèo. Vào cái thời khắc ấy cũng như tôi, chắc là bao người xưa đã bừng thức: phải giữ lại cho cây lúa nước những gì là của nó, cần cho nó! Nước và màu mỡ phải ở lại nơi cây lúa, cây lúa phải tươi tốt ngay trên đất dốc. Giây phút ấy đã vỡ oà ra ý tưởng: phải làm ruộng bậc thang ngay trên lưng chừng núi. Đó là bước ngoặt lớn nhất cho nghề trồng cây lúa nước ở miền núi! Để nhận ra cái điều giản đơn ấy phải mất bao đời người? Ruộng bậc thang ra đời từ bao giờ, tộc người nào khai phá đầu tiên? Nhà nông học, nhà dân tộc học nào đã có câu trả lời?
Hoá ra cây lúa cũng cần được ứng xử như con người! Nhà sàn cột thấp, cột cao nhưng sàn nhà phải bằng phẳng - bát nước đầy không đổ - mới ngon cơm ăn, tròn giấc ngủ, mới nên vợ, nên chồng, sinh con đẻ cái. Từ đó, trước mỗi bản Mường cứ mọc lên những cánh đồng bậc thang bốn mùa tươi tốt.
Khi còn công tác, tại một buổi họp về thu hút đầu tư, sau khi nghe chủ dự án báo cáo, các đại biểu khác đăng đàn, tôi đã bộc bạch tâm sự của mình: Nông dân miền núi nói chung đều đặt cái làm lên trước cái ở. Đất bằng phẳng hơn dành làm ruộng bậc thang cho cây lúa, nhà cửa lùi lên cao nơi đất dốc hơn; đặt cái “ lạc nghiệp” lên trước cái “an cư” - đó có phải là cái khác cơ bản của người miền núi so với người đồng bằng, thành thị? Vì một dự án đầu tư nào mà phải phá đi ruộng bậc thang phải được tính toán, cân nhắc kỹ càng.
Bây giờ thì nhiều địa phương, ruộng bậc thang không chỉ là nơi cây lúa sinh sôi theo mùa vụ để nuôi người, nó còn là những điểm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Họ đến và thu vào ống kính những bức hình sống động về cây lúa cheo leo nơi lưng chừng trời đất. Những người nông dân miền núi cứ cặm cụi lam làm, mải miết cày bừa, cấy hái, họ có ngờ đâu mỗi cử chỉ của họ như những động thái của người hoạ sĩ cầm cọ chấm phá cho bức tranh bao đời ấy cứ ngời ngợi lên dọc những nẻo đường dốc quanh co đồi núi.
Đinh Đăng Lượng (T.T.V)
(HBĐT) - Ngày 22/6/1886, tỉnh Hòa Bình được thành lập, lấy tên là tỉnh Mường gồm có 4 phủ: Vàng An, Lương Sơn, Lạc Sơn, Chợ Bờ, tỉnh lỵ đặt tại chợ Bờ.
(HBĐT) - Hòa Bình từ lâu là một địa danh nổi tiếng với nền văn hóa đặc sắc, tiêu biểu trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Trên vùng đất lịch sử này, các dân tộc anh em đã cùng đoàn kết, gắn bó xây dựng và bảo vệ quê hương, tô thắm núi sông, bản làng, xây dựng nên truyền thống văn hóa đa dạng, phong phú đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó có 7 dân tộc chủ yếu là Mường, Kinh, Thái, Tày, Dao, Mông, Hoa.
(HBĐT) - Mường Bi - xứ Mường lớn nhất trong 4 Mường. Song hành cùng với một không gian văn hóa truyền thống đặc sắc, Mường Bi còn gìn giữ được một không gian văn hóa cồng chiêng độc đáo. Hướng về Lễ kỷ niệm 125 năm thành lập tỉnh, 20 năm ngày tái lập tỉnh và Lễ hội văn hóa cồng chiêng, từ vùng núi cao Ngổ Luông, Quyết Chiến đến thủ phủ Địch Giáo, Phong Phú, Phú Vinh đã ngân dài những giai điệu ping! poòng! piing... Thức dậy rồi, hồn chiêng Mường Bi!
(HBĐT) - Tôi được lãnh đạo tỉnh mời tham gia Ban Biên tập và tham gia soạn thảo, dịch thuật cuốn “Mo Mường Hòa Bình” mà trọng tâm là dịch thuật phần truyện tình “Vườn hoa - Núi cối”. Sau khi cuốn “Mo Mường Hòa Bình” hoàn thành, là những người cầm bút lại sinh ra từ vùng đất này, chúng tôi rất vui mừng, song cũng có nhiều băn khoăn, trăn trở về những cái được, chưa được của cuốn sách.
(HBĐT) - Tỉnh Mường - tỉnh Hòa Bình còn rất trẻ, năm 2011 này mới vừa tròn 125 năm thành lập và phát triển (1886). Tuy nhiên, lịch sử của tỉnh Hòa Bình không phải chỉ được tính từ năm 1886, theo Dụ thành lập tỉnh Mường của quan Kinh lược Bắc kỳ mà phải tính từ khi con người thời tiền sử đã sinh sống cách nay hàng nghìn năm, thậm chí hàng vạn năm về trước trong các hang động, mái đá vôi của tỉnh.
(HBĐT) - Với chiếc yếm bên trong, áo dài, áo ngắn bên ngoài, đi cùng chiếc váy cầu kỳ và dải thắt lưng duyên dáng, điểm xuyết bằng những chiếc vòng bạc, chuỗi hạt cườm quý giá, bên hông là bộ xà tích bằng bạc... Tất cả đều thật đẹp, nhưng sẽ thật thiếu cho bộ trang phục của người phụ nữ Mường nếu không có thêm dải khăn đội đầu màu trắng - một chi tiết tuy rất đơn giản nhưng lại mang một ý nghĩa sâu sắc.