Ông Sùng A Màng say sưa với chiếc khèn Mông.

Ông Sùng A Màng say sưa với chiếc khèn Mông.

(HBĐT) - Ngày nay, công nghệ số phát triển bùng nổ đã và đang đẩy lùi những điệu khèn Mông dần vào trong lãng quên. Trong khi nhiều chàng trai Mông đã chuyển sang tỏ tình bằng nhạc chuông điện thoại di động thì ở bản vùng cao Xà Lĩnh, xã Pà Cò (Mai Châu, Hòa Bình) vẫn còn sót lại ông già mà tình yêu với khèn Mông của ông chưa bao giờ nguội tắt.

 

Trong ngôi nhà nhỏ nằm chênh vênh giữa khu Bảo tồn Thiên nhiên Hang Kia - Pà Cò, ông Sùng A Màng, 81 tuổi, tiếp chúng tôi bằng một bản nhạc khèn Mông miên man lòng người. “Tôi học thổi khèn từ năm 13 tuổi, cái tuổi mà chàng trai Mông nào cũng biết thổi khèn tán gái. Thổi không thì đơn giản nhưng vừa nhảy kết hợp thổi được mới khó”.

Dứt lời, ông Màng thể hiện một bản nhạc Mông kết hợp những điệu nhảy phức tạp cho chúng tôi thưởng thức bên bếp lửa cháy đỏ rực. Bản nhạc thứ hai tặng khách đã dứt, ông Màng đổ nước vào khèn và giải thích: Khèn có độ ẩm thì âm thanh trong hơn, người Mông thường múa khèn trên bãi cỏ hay bãi đất bằng phẳng với những vũ điệu rất khó, những bước nhún, bước đo, bước quay hoặc vừa ôm khèn vừa lăn mình trên đất thể hiện được sự uyển chuyển, tinh tế của người biểu diễn. 

Hiện nay, ở các xã vùng cao của tỉnh Hòa Bình còn rất ít người biết thổi khèn Mông. Riêng người vừa thổi vừa nhảy được như ông Màng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Theo ông Màng, những động tác vừa thổi, vừa nhảy cực khó. Động tác múa khèn của người Mông rất phong phú và đa dạng như: múa nhảy đưa chân, quay đổi chỗ, quay tại chỗ, vờn khèn, lăn nghiêng, lăn ngửa… Ngồi bên bếp lửa hồng ấm áp khiến chúng tôi quên đi cái lạnh của thời tiết vùng cao. Còn ông Màng cứ nói chuyện với chúng tôi được mấy câu lại cầm chiếc khèn lên thổi. Tiếng khèn ngân lên đi kèm theo các vũ điệu đã thể hiện được sự tinh tế, khéo léo của người con trai Mông.

Lạ thật, tại sao người ta không đứng yên một chỗ để thổi cho đỡ mệt mà phải vừa thổi vừa nhảy múa như vậy? Như hiểu được ý tôi, ông Màng cười giải thích: “Tiếng khèn lúc trầm lúc bổng, từng động tác từ dễ đến khó, đó là thông điệp của người biểu diễn gửi gắm một điều gì đó không thể diễn tả bằng lời đến với người nghe và người xem. Tiếng khèn cũng là một cách bày tỏ tình cảm của những chàng trai Mông với các cô gái mỗi khi mùa xuân về, tiếng khèn cũng là sợi chỉ tình duyên nối hai người con trai và con gái trọn đời bên nhau”. 

Một mùa xuân mới sắp đến với bà con dân tộc Mông, đây là thời khắc thiêng liêng, may mắn nhất. Đó cũng là lúc tiếng khèn Mông vang vọng khắp núi rừng, những bản nhạc tình ca mang đậm bản sắc dân tộc không ngừng cất lên, thời điểm mà những chàng trai Mông không phải vào rừng đốn củi, làm nương nữa. Họ hò hẹn nhau ra những vùng đất trống, tụ tập từng nhóm đông người cả trai và gái. Lúc này tiếng khèn chính là lời tâm sự, lời nhắn nhủ lòng yêu thương của chàng trai với cô gái mà mình đem lòng yêu thương. 

Thấy chúng tôi tò mò về cách bày tỏ tình cảm qua tiếng khèn của các chàng trai Mông, ông Màng một lần nữa đứng bật dậy ôm lấy chiếc khèn biểu diễn luôn một bản nhạc. Tuy tuổi cao nhưng ông Màng vẫn nhảy như thanh nhiên. Bản nhạc nghe du dương, da diết :

Yêu nàng, anh yêu lắm,

Lòng anh yêu cô nàng

Say đắm lắm cô nàng ơi

Ra về thương nhớ vô cùng

Nhớ mãi ngày này mùa năm sau. 

Tiếng khèn của ông Màng có sức lôi cuốn kỳ lạ, ấm áp, khác hẳn so với những tiếng khèn mà tôi đã được nghe từ những chàng trai Mông ở Lào Cai, Yên Bái biểu diễn. Theo ông Sùng A Màng, chủ nhân của những chiếc khèn, để làm được một chiếc khèn có âm thanh vang vọng nhưng ấm áp lòng người không phải ai cũng làm được. 

Chúng tôi muốn học hỏi kinh nghiệm cũng như kỹ thuật làm khèn của người Mông, ông Màng đứng lên chiếc ghế với tay lên gác bếp cầm xuống một bó trúc nhỏ có chiều dài gần một mét cùng một khúc gỗ trông như một cái chày ngắn, ông Màng cho biết đây chính là những vật liệu tạo ra những âm thanh sâu lắng của khèn Mông. Ông Màng cầm khúc gỗ nặng trĩu giải thích: “Đây là gỗ nghiến mình dùng để làm tâu kình (thân chính của khèn), nhiều nơi có gỗ pơ - mu thì làm bằng loại gỗ đó vì nó nhẹ hơn gỗ nghiến, để làm ra được một chiếc khèn thì khâu chuẩn bị nguyên liệu là lâu nhất, vì khi đi rừng lấy về phải sấy khô cho thật nhẹ, sấy khô thì lúc mình làm nó sẽ không bị cong, nứt, như vậy tiếng khèn phát ra sẽ khác”.  

Theo ông Màng thì việc tìm nguyên liệu để làm khèn thật không dễ chút nào vì ở quê ông không có loại trúc để làm khèn nên ông phải lặn lội sang các tỉnh bạn lấy. Phần thân chính của khèn có độ dài bằng độ dài cánh tay của người thổi, thông thường dài hơn 60 cm. Thân chính của khèn phải làm bằng thân của cây gỗ có chất liệu tốt, đặc biệt là phải qua sơ chế. Ngoài phần gỗ khèn còn cần đến một miếng đồng nhỏ, rất mỏng dùng để điều chỉnh âm thanh và 5 ống trúc nhỏ có đục lỗ để điều chỉnh thanh nhạc.

Từ những chiếc khèn do chính tay mình làm ra, ông Sùng A Màng hằng ngày vẫn mang theo mỗi khi đi làm nương, hiện ông là người duy nhất ở Pà Cò còn lưu giữ lại những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của bà con dân tộc Mông qua tiếng khèn. Khuôn mặt ông thoáng đượm buồn khi nói về lớp trẻ thời nay: “Bọn trẻ bây giờ không chịu học thổi khèn nữa, chúng toàn nghe những loại nhạc bập bùng ở đâu đó, tôi đã truyền dạy cho bao nhiêu đứa nhưng chẳng mấy ai học được”.

 

 

 

                                                                  HBĐT tổng hợp

 

Các tin khác

Phụ nữ Mường đồ xôi trong ngày lễ, Tết truyền thống của dân tộc.
Túi bùa thiêng của dòng họ Bùi đã làm các nhà khảo cứu văn hóa Việt Nam, Phần Lan rất bất ngờ và thích thú.
Cơm xôi được dỡ ra một cái “bâm” (cái nong nhỏ đan bằng toàn nan cật bương, có chân bằng gỗ).
Hiện nay, nhiều vùng Mường ở Hòa Bình vẫn còn duy trì nghề nuôi tằm, dệt vải.

Quan niệm về kinh nghiệm lao động sản xuất trong tục ngữ, thành ngữ, quán ngữ... dân tộc Tày, huyện Đà Bắc

(HBĐT) - Theo các tài liệu cổ viết bằng chữ Tày, trải qua hàng nghìn năm đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống cho mình, người Tày huyện Đà Bắc đã đúc rút được những kinh nghiệm quý giá, chẳng hạn như để dự báo thời tiết họ quan sát bầu trời về ban đêm: phá chi phận đạo chánh, phá chi lánh đạo chộm (Trời mưa sao tỏ, trời nắng sao mờ) hay: Cọp lếch nong, cọp tong lánh (Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa) hoặc: Phá lánh máu hộn, phá phận máu ọc (trời sắp mưa mối ra, trời nắng mối vào).

Đình Xàm- Di sản văn hoá quý hiếm trong đất Mường cổ

(HBĐT) - Hòa Bình là tỉnh có ít di tích loại Đình, Đền, Miếu - Đình Xàm xã Phú Lai, huyện Yên Thủy thờ thành hoàng là người bản địa, còn lưu giữ được 11 bản sắc phong (sớm nhất cuối thế kỷ XVIII muộn nhất vào năm 1925). Những yếu tố trên có thể coi đình Xàm là một di sản văn hóa quý giá giữa vùng Mường cổ của Hòa Bình.

Hang Chổ

(HBĐT) - Hang Chổ thuộc xóm Hui, xã Cao Răm, huyện Lương Sơn. Cách thành phố Hoà Bình 42km về hướng Đông bắc, cách thủ đô Hà Nội 40km. Theo tiếng Mư¬ờng có nghĩa là hang ốc vì trong hang có rất nhiều vỏ ốc nằm rải đều khắp trên nền hang.

Di tích lịch sử chiến công diệt xe tăng của Anh hùng Cù Chính Lan

HBĐT) - Di tích ghi dấu chiến công diệt xe tăng của anh hùng Cù Chính Lan nằm ở dốc Giang Mỗ cạnh đường 6A (cũ) thuộc địa phận xóm Giang Mỗ, xã Bình Thanh, huyện Cao Phong. Chiến công diệt xe tăng địch của anh hùng Cù Chính Lan tại Giang Mỗ được gắn liền với chiến thắng oanh liệt của quân dân ta trong chiến dịch Hoà Bình năm 1951-1952.

Hang Muối

(HBĐT) - Hang Muối nằm trong núi đá Ba Bến thuộc thị trấn Mường Khến, huyện Tân Lạc. Cách thành phố Hoà Bình khoảng 29km theo quốc lộ số 6 ngay thị trấn Mường Khến, huyện Tân Lạc. Hang Muối là một mái đá cao, thoáng đãng và rộng rãi, cửa rộng 27m; sâu 11m; cao 13m. Cửa hang quay theo hướng Đông nam thoáng mát về mùa hè và tránh được những cơn gió lạnh thấu xương về mùa Đông.

Đặc sắc bản Lác

(HBĐT) - Bản Lác thuộc thung lũng Mai Châu, tỉnh Hoà Bình, là bản dân tộc ở tỉnh Hoà Bình với những phong tục tập quán đặc sắc.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục