(HBĐT) - Lâu rồi, có dễ đã hàng chục năm, tôi mới lại có dịp ngược hồ thuỷ điện cho hết địa phận của tỉnh Hoà Bình và sang tới tận Sơn La. Chuyến điền dã sáng tác, quảng bá du lịch vùng hồ Hòa Bình có sức hút lớn đối với hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, Hội Nhà báo tỉnh và hàng chục hoạ sỹ ở Thủ đô Hà Nội tham gia. Anh em văn nghệ sỹ, báo chí dù mới gặp lần đầu nhưng tỏ ra thân mật, chuyện nở như ngô rang để rồi bùng nổ những trận cười đến nghiêng ngả hồ nước xanh.
Với tôi, thời gian thấm thoắt nay đã 43 năm, từ một thân một mình, nay tôi đã có một gia đình đầm ấm với 10 con người của 3 thế hệ sinh sống tại Hoà Bình. Chuyến đi này, tôi được gặp lại rất nhiều địa danh của huyện Đà Bắc, nơi mình và cả gia đình nhỏ của mình gắn bó nhiều năm. "Đà Bắc là huyện miền núi cao của tỉnh Hà Sơn Bình, với diện tích 864 km2, 23 xã…” - đó là những dữ liệu tôi thuộc và nhớ từ năm 1977 cho đến giờ.
Từ cảng Bích Hạ thuộc TP Hoà Bình ngược hồ, khi xưa phía trái có các xã: Thung Nai, Ngòi Hoa, Dân Lập, Tân Lập. Sau này, do điều chỉnh địa giới hành chính, Thung Nai về Cao Phong, Ngòi Hoa về Tân Lạc; Dân Lập sáp nhập với Tân Lập thành xã Tân Dân và thuộc huyện Mai Châu. Như vậy, chuyến điền dã lần này, tôi đã được gặp lại các địa danh: Vầy Nưa, Hiền Lương, Thung Nai, Ngòi Hoa, Hào Tráng, Dân Lập, Tân Lập, Yên Hoà, Tiền Phong, Đồng Ruộng, Đồng chum, Mường Chiềng, Suối Nánh, Đồng Nghê, vị chi là 14/23 xã của huyện Đà Bắc khi chưa ngập thành hồ.
Ngồi trên tầu du lịch lướt sóng hồ, trong tôi những ký ức tràn về xao xuyến. Do địa hình thay đổi, các làng bản tôi đã đặt chân, đã ăn ở cùng bà con nay chìm sâu dưới đáy hồ. Những làng mạc hiện nay là kết quả của công cuộc chuyển di vén như cách gọi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi chỉ đạo chuyển dân năm 1980 – 1982 và tạo dựng cho tới ngày nay. Tôi thường ở bên anh lái tầu để hỏi chỗ này thuộc xã nào để biết và hình dung lại những gì còn lưu giữ trong đầu về địa danh đó.
Trong khuôn khổ bài viết, tôi xin nói về khu vực Chợ Bờ. Khu vực Chợ Bờ có thác Bờ, chợ Bờ và phố Bờ. Thời thuộc Pháp, đã hai lần tỉnh Bờ đặt tỉnh lỵ nơi đây (từ 1886 mới có tên tỉnh Hoà Bình). Trước khi nằm dưới hồ nước sâu, nơi đây là huyện lỵ huyện Đà Bắc. Tuy nhiên, phố Bờ nhỏ, gọn chưa đủ tiêu chuẩn của một thị trấn. Chính vì vậy, gọi là phố Bờ nhưng chỉ là một đơn vị hành chính tương đương một xóm thuộc xã Vầy Nưa, mà UBND xã Vầy Nưa đặt ở xóm Vầy, trung tâm xã Vầy Nưa cách đó hàng chục km bên sông phía hạ lưu.
Từ chân dốc Cun thuộc TP Hoà Bình, theo quốc lộ 6A qua Bình Thanh (thuộc huyện Kỳ Sơn thời đó) rồi đến Thung Nai khoảng gần 20 km ta gặp sông Đà. Sau hàng chục km qua rừng, núi, sông Đà mở ra không gian trời nước mênh mông. Nhìn ngược phía thượng nguồn, ngay trước mặt, ta gặp hàng chục núi đá, mỏm đá to nhỏ mọc đầy mặt sông. Đó chính là thác Bờ hùng vỹ. Từ Thung Nai qua phà, đi khoảng 2,5 km nữa qua xóm Hang Thần của đồng bào Mường, tới cầu Búng, gặp chợ Bờ và đó cũng là đầu phố Bờ nơi có dân cư sinh sống và các cơ quan huyện Đà Bắc đứng chân.
Trước khi chuyển dân, chuyển huyện lỵ từ Chợ Bờ về Tu Lý, các cơ quan, trường học, nhà dân nơi đây đều là nhà gỗ hoặc tranh tre, nứa lá. Duy nhất có Bưu điện huyện bên cạnh quốc lộ 6, đoạn giữ phố Bờ là nhà xây còn lại từ thời thuộc Pháp. Tuy trong sử sách ghi lại tỉnh lỵ tỉnh Bờ hai lần đóng tại Chợ Bờ, nhưng dấu tích của những cơ quan, công sở thời tỉnh lỵ ấy hầu như không còn. Tôi nhớ lại, phía sau Ngân hàng huyện Đà Bắc là đồi, dưới những vạt dây khoai lang xanh tốt thỉnh thoảng lộ ra những đống gạch vụn, có chỗ còn hình thù của móng nhà, đường đi… có lẽ đó là dấu tích của tỉnh lỵ tỉnh Bờ khi xưa? Có lẽ hàng cây gỗ tếch cổ thụ chạy dọc phố là minh chứng tiêu biểu cho sự có mặt sớm của người Pháp tại nơi này.
Trong cuốn "Tỉnh Mường Hoà Bình” (Hoa Binh Mương Province) của học giả người Pháp PIERRE GROSSIN xuất bản lần đầu bằng tiếng Pháp năm 1926 có đoạn: "Sông Đà chảy từ Chợ Bờ đến Hoà Bình giữa khe hẹp của những dãy núi đá vôi. Suốt bốn mùa thuyền lớn lui tới Chợ Bờ, nơi có một cái chợ rất to, cứ mười ngày họp một phiên. Phía trên đập Bờ (thác Bờ), chỉ có thuyền độc mộc đi lại được. Để có thể đi lại bằng đường thuỷ, năm 1890, ông Morel có ý muốn khơi một con sông đào để đi tránh cái đập mà trước đây công binh đã dùng mìn để khai thông nhưng vô hiệu”. Như thế, nếu người Pháp thực hiện được việc khơi một con sông đào để tránh thác Bờ thì con sông đào ấy sẽ chạy qua phố Bờ.
Mấy năm gần đây, khi tham gia sưu tầm hình ảnh thác Bờ, khu vực Chợ Bờ trước đây, tôi gặp được một số hình ảnh quý giá của thác Bờ, vùng Chợ Bờ từ thời thuộc Pháp (năm 1925) mới hình dung ra khu vực tỉnh lỵ tỉnh Bờ khi ấy đã sầm uất lắm. Tầu thuỷ hiện đại (hai tầng) của Pháp đã cập bến Chợ Bờ. Người Pháp đã chụp ảnh toàn bộ khu vực Chợ Bờ, thác Bờ từ trên cao. Mới nghĩ, vùng Chợ Bờ khi xa xưa có thể đã là một thương cảng giao thương từ Thủ đô Hà Nội với vùng Tây Bắc. Vì khi đó đường bộ chưa mở, giao thông lên miền ngược chủ yếu nhờ vào sông Đà, huyết mạch từ đồng bằng Bắc Bộ lên Tây Bắc.
Từ Việt Trì - ngã ba sông, ngược sông Đà lên đến Chợ Bờ. Do thác Bờ hiểm trở và hung dữ nên tầu lớn không thể vượt qua. Đây chính có thể là một lý do bất khả kháng để người Pháp dừng chân, neo đậu và mở ra tỉnh lỵ nơi này. Hẳn nhiều người còn nhớ, ngay dưới chân thác Bờ là chợ Bờ và có bến Hạ. Điểm gần cuối của phố Bờ phía trên thác Bờ là bến Thượng. Những địa danh (bến Hạ, bến Thượng) này càng cho ta thêm liên tưởng đến vị trí quan trọng của vùng Chợ Bờ khi xưa, nhất là khi nơi đây đã hai lần là tỉnh lỵ của tỉnh Bờ. Đầu thế kỷ XX, mỗi tuần đã có một chuyến tầu du lịch hai tầng của người Pháp từ Bạch Hạc (Việt Trì) chở khách thăm quan thác Bờ, chợ Bờ.
Ngược tiếp dòng lịch sử, vào tháng 3 âm lịch năm Đinh Tỵ (1432) trên đường dẹp giặc loạn Đèo Cát Hãn trở về, Vua Lê Lợi đã làm thơ khắc vào vách đá thuộc quần thể đá thác Bờ phần nằm trên phố Bờ mà các thế hệ sau này gọi là núi thơ Lê Lợi hay Bia Lê Lợi. Khi chuyển huyện, chuyển dân khỏi vùng lòng hồ sông Đà, phần đá khắc thơ này được cắt rời chuyển về thị xã Hoà Bình và nay lại được chuyển lên đặt trên núi Hang Thần trên hồ Hoà Bình thuộc Chợ Bờ xưa.
Rất tiếc cho tới nay, những sử liệu về tỉnh lỵ tỉnh Bờ mà chúng ta có được còn quá ít. Theo tôi, đây cũng là một nhiệm vụ mà những nhà sử học, nhà nghiên cứu cần quan tâm làm rõ. Hiện nay, tỉnh Hòa Bình đang coi trọng đầu tư phát triển du lịch vùng hồ Hòa Bình thành khu du lịch cấp quốc gia. Những trầm tích văn hóa, lịch sử cùng những kỳ quan thiên nhiên nằm sâu dưới đáy hồ rất quý, rất cần được tái hiện bằng sa bàn, bằng vật chứng, sách, ảnh để giới thiệu với khách du lịch gần xa thì quả là hấp dẫn!
Lê Va
(Hội Văn học nghệ thuật tỉnh)
(HBĐT) - Mùa xuân mang hơi thở, không khí và diện mạo của Tết. Tết là thời điểm cuối đông chớm xuân, cũng bởi tiết trời đó, đối với mỗi người, Tết luôn mang trong mình một nét truyền thống, một dấu ấn khó phai. Có lẽ trong một năm, những ngày Tết được mong chờ nhiều nhất. Chính vì thế mà ở quê, những ngày Tết thực sự là những ngày thiêng liêng nhất, vui vẻ nhất trong năm. Mẹ tôi vẫn bảo, khi năm cũ sắp qua, năm mới đang gõ cửa từng nhà, không khí trở nên gấp gáp hơn, lòng người cũng tất bật hơn. Cảnh vật, con người những ngày giáp Tết thật chộn rộn, cây cối xanh tươi hơn, nảy lộc, đâm chồi, con người trở nên vội vã để đón những điều mới mẻ đang ở phía trước.
(HBĐT) - Trước xóm có tên là Lũng Hang, nay sáp nhập với xóm Hang Nước thành xóm Nước Hang, xã Mông Hóa (TP Hòa Bình). Nhưng bà con nơi đây vẫn thường gọi xóm là Làng Hoa, Lũng Hoa bởi mỗi độ xuân về, hoa đào bung nở, cả thung lũng như bừng tỉnh, thay áo mới. Từ đường QL6, rẽ vào hơn 2km, dần mở ra trước mắt chúng tôi là cả một thung lũng hoa đào với hàng vạn gốc đào khoe sắc, càng vào sâu trong xóm càng là bạt ngàn hoa đào.
(HBĐT) - Cùng các thầy, cô giáo trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình, chúng tôi có cơ hội được tham gia điều tra, khảo sát tìm hiểu về ngôn ngữ, văn hóa và nhu cầu học tiếng nói, chữ viết dân tộc Mường của hơn 800 người dân thuộc 4 Mường lớn Bi – Vang – Thàng – Động. Thật đáng trân trọng gần 100% cán bộ, công chức cấp xã, huyện, giáo viên từ bậc mầm non đến THPT, HSSV, Nhân dân, người lao động được hỏi đều có chung câu trả lời là mong muốn được học chữ Mường, được tìm hiểu, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Mường.
(HBĐT) - Đồng bào dân tộc Dao trên địa bàn tỉnh gồm Dao tiền và Dao quần chẹt, sinh sống tại các huyện:Kim Bôi, Đà Bắc, Cao Phong, Lương Sơn và thành phố Hòa Bình với 44 bản Dao, trên 17.000 người. Ngoài những lễ hội đặc sắc như tết nhảy, cấp sắc, cầu mùa, tạ mả…, đồng bào dân tộc Dao còn lưu giữ tinh hoa văn hóa độc đáo trên những bộ trang phục truyền thống.
(HBĐT) - Mỗi độ Tết đến, xuân về, cùng với các hoạt động biểu diễn văn hóa văn nghệ, ẩm thực thì các môn thể thao dân tộc, trò chơi dân gian luôn là điểm nhấn hấp dẫn, tạo sự quan tâm của người dân. Việc tổ chức các môn thể thao dân tộc, trò chơi dân gian truyền thống trong các dịp lễ, Tết tạo không khí vui tươi, phấn khởi gắn kết cộng đồng, góp phần gìn giữ nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.
(HBĐT) - Trong tâm thức của mỗi người con quê hương Hòa Bình, chiêng Mường đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống văn hoá, tinh thần. Trong không khí vui tươi, rộn ràng của những ngày đầu xuân năm mới, khắp nơi vang vọng tiếng chiêng lúc thì nhịp nhàng, trầm bổng, khi thì sôi động, hào hùng.... Chiêng được sử dụng rộng rãi trong đời sống của người dân tộc Mường, đặc biệt không thể thiếu trong các lễ hội xuân.