Trống đồng Hòa Bình được ngành chức năng lưu giữ,trưng bày nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của người dân.
Các nhà khảo cổ đã tìm được 11 chiếc trống Đông Sơn (loại I Heger) trên địa bàn tỉnh; trong đó, nhóm A có 3 chiếc là trống sông Đà, trống Đồi Ro và trống Hòa Bình; nhóm B có 2 chiếc là trống Yên Bồng III và trống Đú Sáng; nhóm C có 5 chiếc là trống Khoan Dụ, Chợ Bờ, Lạc Long, Yên Bồng I, Yên Bồng II; nhóm Đ có trống Vĩnh Đồng II.
Về kiểu dáng, trống Đông Sơn đều có mặt chờm tang, xuất hiện các khối tượng cóc trên mặt trống. Về hoa văn trang trí, đáng chú ý là những hình người múa hóa trang lông chim cách điệu thành văn cờ. Đặc biệt, trên trống Khoan Dụ và trống Vĩnh Đồng II đã xuất hiện các yếu tố hoa văn loại mới: ô trám, trám lồng trang trí ở phần chân. Trống Khoan Dụ và trống Vĩnh Đồng II đều thuộc dòng trống lưng thẳng, kích thước tương đối lớn, đánh dấu sự chuyển tiếp về mặt kích thước giữa trống Đông Sơn truyền thống sang trống có kích thước lớn tồn tại phổ biến trên trống loại II Heger. Do đó, có thể nhận định rằng, trống Đông Sơn đã phát triển và sáng tạo thêm một bước mới qua sự tồn tại của những trống loại II Heger phát hiện trên đất Hòa Bình.
Trống đồng sông Đà là một đặc trưng cho loại trống Đông Sơn (Heger I) được tìm thấy ở Hòa Bình vào cuối thế kỷ XIX. Trống có đường kính 78 cm, chiều cao 61 cm. Trống còn tương đối nguyên vẹn, mặt cũng như thân có nhiều vết sẹo. Mặt trống chờm ra ngoài thành tang một ít. Bố cục trang trí và hình loại hoa văn gần giống với các trống Ngọc Lũ I và Hoàng Hạ. Đây là 1 trong 4 chiếc trống đồng vào loại đẹp nhất và cổ nhất trên thế giới. Trên trống xuất hiện hình người trang sức lông chim, tay cầm vũ khí giữa những thủy thủ hoạt động đồng loạt, khiến người ta nghĩ đến vai trò khác nhau giữa họ. Có thể người đứng là người chỉ huy chung cuộc đua thuyền này.
Mặt trống: chính giữa là hình ngôi sao nổi 14 cánh, xen giữa các cánh sao là những hình lông công. Hoa văn gồm hai loại: Văn hình học, văn người và vật. Về hoa văn hình học có văn chấm dải, văn chữ S gãy khúc nối tiếp, vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến song song, vân răng cưa và một vành gồm hai đoạn hồi văn xen giữa với hai đoạn văn xoắn ốc hình quả trám kèm theo vòng tròn chấm giữa. Vành 8 có 18 con chim gồm 16 chim bay giống chim vành 9 của trống Hoàng Hạ và 2 con chim đứng, theo hướng ngược chiều kim đồng hồ.
Thân trống: Tang trống có 10 băng hoa văn. Băng 1 và 6 là những chấm dải. Băng 2 và 5 là văn răng cưa. Băng 3 và 4 là vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Băng 7 là băng trang trí chủ đạo có 6 hình thuyền. Xen giữa các thuyền có hình một chim đứng. Đây là loại chim cổ cao, chân cao như chim hạc.
Lưng trống: Có 7 băng hoa văn hình học. Băng 1 là băng trang trí chủ đạo có những hình cột hoa văn hình học gồm 6 dải. Những cột hoa văn này bố trí theo chiều thẳng đứng, chia thành 8 ô không đều nhau, trong mỗi ô có một hình người đang bước. Tất cả 8 người này đều trang sức hình đầu chim trên đầu, tay phía trước giơ cầm một vật như hình chiếc mộc, trên đầu mộc có trang sức lông chim, tay phía sau cầm vật hình mũi giáo mà mũi chỉ xuống dưới, nhưng không có cán. Phần dưới những hình người múa là 6 băng hoa văn hình học tương tự như trên tang trống.
Năm 1958, Viện Bảo tàng Lịch sửViệt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sửQuốc gia) sưu tầm được một chiếc trống đồng tại nhà ônh Đinh Công Minh thuộc tỉnh Hòa Bình. Trống này có dáng tương đối thấp, tang lớn hơn mặt, lưng không còn giữ nguyên hình trụ thẳng đứng mà gần chân.
Qua mô tả trống cho thấy, các sinh hoạt hàng ngày của người Hòa Bình đã được khắc họa trên mặt trống đồng (như trống sông Đà...), từ nơi ở (nhà sàn), cuộc sống hàng ngày (giã gạo, muông thú), đến đời sống văn hóa (múa, đua thuyền), quan niệm về thế giới quan (đối xứng, hình học)...
Trống loại II Heger được tìm thấy ở Hòa Bình có số lượng lớn (59 chiếc) và tìm thấy chủ yếu trên địa bàn cư trú của người Mường. Trống loại II Heger ở Hòa Bình có những nét đặc trưng mang tính thống nhất của trống loại này ở Việt Nam.
Trống đồng loại II Heger gắn bó lâu dài với người Mường. Những chức năng ban đầu là biểu tượng thần thoại của trống trong nghi thức cầu mưa, cầu mùa liên quan đến nghề nông đã phai nhòa. Đối với người Mường, chức năng rõ nét của trống là biểu tượng quyền uy của tầng lớp lang đạo và là một nhạc cụ trong tang lễ. Tài liệu khảo cổ học cho thấy, trống đồng loại II Heger phân bố tập trung trên địa bàn cư trú của người Mường. Khi vai trò của trống Đông Sơn kết thúc thì trống đồng loại II Heger vẫn được người Mường trân trọng bảo lưu. Trống đồng loại II Heger là biểu trưng về sức sống của truyền thống văn minh Đông Sơn, là biểu trưng xác nhận quyền lực của phong kiến Việt Nam đối với các thổ lang Mường, thể hiện tính thống nhất về mặt chính trị Việt - Mường. Trống đồng đã gắn bó với cuộc sống của người Mường. Vùng Mường chính là địa bàn kế thừa trực tiếp truyền thống trống Đông Sơn. Vì thế, trống loại II Heger là biểu tượng văn hóa của người Mường, tiêu biểu cho bản sắc Mường.
Sự hiện diện của trống đồng loại II Heger trên vùng cư trú của người Mường trong suốt gần hai thiên niên kỷ đã là một bằng chứng hùng hồn của truyền thống Đông Sơn, là sự tiếp nối và sáng tạo nền văn hóa văn minh Việt cổ. Với những ý nghĩa trên, trống đồng loại II Heger có thể gọi là trống Mường.
Ngày nay, trong vùng không gian của văn hóa trống đồng, với nhiều cộng đồng, trống đồng chỉ còn là kỷ niệm đẹp của thời quá khứ. Nhưng ở xứ Mường, vai trò của trống đồng vẫn không hề suy giảm. Tiếng trống đồng vẫn còn âm vang trong đời sống văn hóa Mường; vẫn ngân lên trong các nghi lễ quan trọng của bản Mường, trong các đêm mo, trong các lễ hội và trong cả các cuộc tiễn biệt người về với đất…
(Còn nữa)
V.T (TH)