Dưới lá cờ thân yêu của Tổ quốc.

Dưới lá cờ thân yêu của Tổ quốc.

(HBĐT) - Vượt qua những cung đường “đệ nhất hùng quan” Yên Minh, Quản Bạ, Mèo Vạc gian nan trong mây mù, giá lạnh, từ thị trấn Đồng Văn, tạm biệt những địa danh hiểm trở và thơ mộng, đoàn nhà báo chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình lên cột cờ Lũng Cú của tỉnh Hà Giang, điểm xa nhất vùng cực bắc Tổ quốc. Trong ý thức mỗi người đều hồi hộp khi được tận mắt chứng kiến lá cờ tung bay trong trời đất vùng biên ải, biểu tượng của chủ quyền quốc gia.

 

Đường đi dốc tiếp đèo, cheo leo bám vực. Lũng Cú cách thị trấn Đồng Văn chừng 30 km nhưng phải mất hơn 1 giờ đi ô tô. Cả đoàn dừng chân tại đồn biên phòng Lũng Cú. Từ vị trí này nhìn lên lá cờ Tổ quốc tung bay trong gió trời lồng lộng. Một luồng cảm xúc căng tràn trong tim mỗi thành viên trong đoàn. Bước qua gần 400 bậc, 140 bậc xoáy ốc lên đỉnh cột cờ, nhìn lá quốc kỳ nước Việt thân yêu bay phần phật trong trời xanh thẳm, hồn thiêng sông núi căng đầy con tim. Địa đầu đất nước là đây. Hạnh phúc vô ngần khi đứng bên nóc nhà Việt Nam. Từ Núi Rồng nhìn xuống, thị trấn Lũng Cú ngập trong làn sương dày đặc, cuồn cuộn di chuyển, đôi lúc thấy những nóc nhà lúp xúp, con đường vùng cao như  dải lụa trên mây. Lũng Cú và cả vùng biên giới đang vào xuân mới! Sương và mây giao hòa, lúc ngập tràn trời, đất vương tóc người đi, lúc bỗng chốc quang đãng, sáng trong đến bất ngờ. Rét. Nhiệt độ thấp hơn thường lệ. Gió thổi ù ù. Sắc đào phai nở bung trên đá núi, vẫn có cánh én chao nghiêng. Tiếng khèn Mông đan môi réo rắt xa gần.

 

Cô bé Vân Anh - hướng dẫn viên có gương mặt bầu bĩnh như trẻ con, tươi như hoa đào, giọng nói trong veo giới thiệu: Nơi chúng ta đứng đây là núi Rồng, xã Lũng Cú, cao khoảng 1.700 m so với mực nước biển. Cột cờ Lũng Cú  trên đỉnh núi Rồng, cao 29,5 m, lá cờ đỏ sao vàng thiêng liêng rộng 54 m2, đại diện cho 54 cộng đồng dân tộc anh em nước Việt Nam. Cột cờ có hình dáng như cột cờ Hà Nội, chân bệ có sáu mặt phù điêu mang nét hoa văn của trống đồng Đông Sơn. Hai bên đỉnh núi là hai hồ nước Lô Lô gần như đối xứng màu xanh biếc, không bao giờ cạn, được ví là đôi mắt rồng, mang thế núi luôn đầy ắp nước, trông giữ biên ải quê hương, nét rất đặc biệt ở vùng cao nguyên miền biên viễn. Lưng chừng núi Rồng có hang Sì Mần Khan được thiên tạo mà như bàn tay thợ tài hoa, khắc họa cuộc sống người dân hòa đồng với thiên nhiên trong từng vân đá. Thung lũng Thèn Ván thăm thẳm, rộng vài chục ha, bên kia là đầu nguồn sông Nho Quế bắt nguồn từ Vân Nam - Trung Quốc đổ về Đồng Văn, Mèo Vạc hòa vào sông Gâm tạo nên mạch sinh thủy vững bền bất tận cho vùng cao cực bắc Hà Giang.

 

Đi từ xóm Séo Lủng ra khu vực Tìa Mông, xóm Cẳng Tằng, xã Lũng Cú là điểm nhô ra xa nhất của cực Bắc và là nơi thắng cảnh đẹp nhất Đồng Văn. Lũng Cú có nhiều tên gọi, mỗi tên gọi đều đẹp như huyền thoại. Có giả thiết cho rằng: Lũng Cú có nghĩa là Long Cư - Rồng trên đồng ruộng hay là Lũng Ngô vì cánh đồng Thèn Pả trồng nhiều ngô, thứ ngô gắn chặt với cuộc sống và là nét văn hóa của người Mông, người Lô Lô. Nhưng có giả thiết khoa học cho rằng, Lũng Cú bắt đầu từ chữ Long Cổ - nghĩa là trống rồng. Thời Tây Sơn, sau khi đại thắng quân xâm lược, vua Quang Trung đã cho đặt một chiếc trống rất to ở trạm gác vùng biên ải hiểm trở này. Cứ mỗi canh, tiếng trống lại vang lên ba hồi đĩnh đạc, vang xa mấy dặm như một sự khẳng định chủ quyền đất nước. Có lẽ vậy mà Lũng Cú khi đọc chệch âm sang tiếng Mông Cổ, tức là trống của nhà vua. Nơi đặt chiếc trống của nhà vua là trạm biên phòng tiền tiêu Lũng Cú hiện nay. Phải chăng đến tận ngày nay, đồng bào dân tộc nơi đây sử dụng thành thạo trống trong những ngày trọng đại. Lũng Cú vẫn giữ gìn được tiếng trống trong tâm thức và những hiện vật văn hóa biểu trưng của thời vua Hùng. Cột cờ quốc gia Lũng Cú mà chúng ta có dịp chiêm ngưỡng hôm nay được hoàn thành vào đúng ngày 2/9/2010 - Vân Anh kể. Xây dựng được cột cờ tốn rất nhiều tâm lực. Riêng phần thủ công, vận chuyển vật liệu, gọt đẽo đá núi phải do công sức của người dân địa phương vì người nơi khác chẳng thể chịu đựng được gió rét của miền cao nguyên đá Đồng Văn.

 

Ở Lũng Cú chỉ có mùa mưa và mùa khô. Mùa nào cũng khắc nghiệt, khó khăn. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, thường có mưa lớn gây sạt lở đường, ách tắc giao thông, đi lại khó khăn. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiều mây mù, nhiệt độ xuống thấp có nơi chỉ vài độ C, nơi có tuyết sa, sương muối. Mùa này nước sinh hoạt thiếu trầm trọng. Vì thế nên sản xuất và cuộc sống người dân khó khăn, để tồn tại được cũng đã là cả một kỳ tích. ấy vậy ở vùng cực bắc này, cuộc sống của người dân vẫn hạnh phúc trong bình dị. Ngàn năm qua, khó khăn, giá rét đã tôi luyện đồng bào các dân tộc nơi biên cương của Tổ quốc ngày càng kiên cường và đoàn kết. Đồng bào dân tộc Mông, Lô Lô, Tày, Dao sống quây quần nơi đây mang trong mình truyền thống tốt đẹp con cháu tiên Rồng. Đồng bào có ý thức cộng đồng sâu sắc, tính cách thật thà, yêu hòa bình, yêu độc lập, yêu vùng cao nguyên khắc nghiệt đã và đang tạo nên những giá trị văn hóa bền vững nơi địa đầu Tổ quốc thân thương. Có ai đó rất tinh tế khi phác họa nét đặc trưng hình ảnh Đồng Văn- Mèo Vạc. Vùng cực bắc Hà Giang trùng điệp đá núi, đá như rừng, bạt ngàn đá xám, hút tận chân trời xa. Nét văn hóa đồng bào dân tộc tạo nên sinh khí, sức sống mãnh liệt vùng biên cương. Đó cũng là những chứng minh Tổ quốc đất Việt thiêng liêng.

 

Trên đỉnh Lũng Cú, con cháu Rồng, Tiên hôm nay nghĩ về đất nước thật tự hào. Lũng Cú khắc nghiệt nhưng da diết nhớ nhung nếu một lần đến. Người dân kiên cường bám trụ sinh sống, sản xuất và hạnh phúc trên cao nguyên đá núi khô cằn. Sắc đào, hoa lê, mai vẫn nở đón xuân trong giá rét. Tiếng  thiếu nữ Mông, Lô Lô vang vọng trong ngần đá núi. Ngô vẫn lên xanh trùm trên đá xám. Lũng Cú còn lưu giữ nền tảng văn hóa truyền thống, rượu ngô nồng đượm, rượu mật ong bùi bùi, ngòn ngọt chè tuyết và thắng cố. Đắm say trong tiếng khèn gọi bạn chan chứa thương yêu, dập dìu đêm chợ tình phố cổ Đồng Văn, nghe hồn dân tộc qua tiếng trống âm vang vách núi.

 

Trên đỉnh Lũng Cú, dưới lá cờ Tổ quốc, bên kia là nước bạn Trung Quốc, bên này là mênh mang cao nguyên đá Đồng Văn, là đất Việt thân yêu. ôm trọn quê hương trong tầm mắt. Lịch sử mấy ngàn năm ào ạt trong tâm hồn con dân đất Việt tạo thành sức mạnh vô biên vượt qua trập trùng gian khó. Anh Đinh Văn ổn, Tổng Biên tập Báo Hòa Bình xúc động: Biểu tượng Việt Nam thực chất là đặt trên nền tảng văn hóa tích tụ, hun đúc, bồi đắp qua mấy ngàn năm dựng nước, giữ nước; là ý chí quật cường, hy sinh, vượt qua đá núi khô khốc, chông chênh, sắc lẹm, nuôi ước mơ ươm mầm sống sinh sôi; là tình cảm yêu thương chan chứa, là tinh thần đoàn kết cộng đồng gắn kết bền vững đến cao độ... Những phẩm chất này luôn thường trực trong lòng mỗi người con Việt Nam.

 

      

                     Khám phá văn hóa miền biên ải qua các hiện vật.

 

Đến với vùng biên ải, thăm cột cờ Lũng Cú, lòng tự hào dân tộc trong sâu thẳm tâm hồn người dân Việt trỗi dậy mạnh mẽ vô biên. Sẽ thật sai lầm nếu có ai đó nhận xét về lớp trẻ hôm nay thờ ơ với lịch sử, quá khứ, truyền thống dân tộc, cha ông, cũng như tương lai. Hàng ngày, lớp lớp thanh niên mọi miền đất nước mặc áo mang sắc hình lá cờ Tổ quốc yêu thương vẫn băng đèo, vượt dốc trong giá lạnh, sương rơi đến với vùng biên cương khám phá để hiểu về truyền thống văn hóa, ý chí kiên cường của người dân vùng biên ải, sống trên đá cao nguyên, giữ trọn lời thề giữ nước với ông cha. Trên đỉnh Lũng Cú, chẳng ai bảo ai cùng nhau hít căng không khí trong lành, đồng thanh hai tiếng Việt Nam. âm thanh Việt Nam truyền mãi, truyền mãi vang vọng trong đá núi cao nguyên, trải dài khắp vùng biên ải. Có lẽ với bất cứ ai lên đỉnh cột cờ Lũng Cú, từ trong sâu thẳm tâm hồn, lòng tự hào, tự tôn dân tộc trào dâng cuồn cuộn, thôi thúc bước ta đi. Giá lạnh, thiên nhiên kỹ vĩ, sắc cờ phần phật đẹp vô hạn làm con tim thổn thức. Quê hương mình đẹp trong gian khó, quật cường trong ý chí; bền bỉ trong chống chọi với khắc nghiệt, chứa chan tình cảm yêu thương. Đó là sức sống mãnh liệt nơi địa đầu cực bắc của Tổ quốc chúng ta.

 

 

                                                                                    Lê Chung

 

 

 

 

Các tin khác

Lãnh đạo Ban Dân tộc chia vui cùng bà con xóm Đăm, xã Đồng Nghê (Đà Bắc) trong ngày khánh thành đường mới. Ảnh LC.
Toàn cảnh Nhà máy thủy điện Sơn La
Đồn điền Chi Nê những năm 1940 chụp từ trên máy bay (ảnh tư liệu).
Một góc Đảo Đá Tây.

Trở lại Hang Kia

(HBĐT) - Đúng vào những ngày đồng bào Mông hồ hởi đón Tết cổ truyền, chúng tôi có dịp trở lại Hang Kia (Mai Châu). Trên đường đi, ngay chặng đường đầu tiên vượt qua dốc Cun, dốc Má, dốc Quy Hậu sương mù đã dày đặc. Lên đến đèo Thung Khe thì sương mù gần như “đặc quánh” khiến xe chúng tôi phải “Dò dẫm” mất gần 1 tiếng đồng hồ mới qua được đoạn đường hơn 30 km.

Chuyện về những người được “thử lửa” trong bom đạn chiến tranh

(HBĐT) - Một người vừa tròn 40 năm tuổi Đảng, còn một người cũng ngấp nghé với 38 năm có lẻ. Ở họ đều có một điểm chung đó là cùng được kết nạp, đứng vào hàng ngũ của Đảng khi trên đầu bom vẫn rơi, đạn vẫn réo trong sự khốc liệt của chiến tranh...

Bò Liêm - bản vắng đàn ông

(HBĐT) - Những gia đình có đàn ông trong nhà chỉ đếm trên đầu ngón tay. Có năm, bản có đến 7 người đang tuổi ăn, tuổi làm phải về với “mường trời” vì nghiện ma túy, mắc HIV/AIDS. Số còn lại phải đi thụ án cũng có liên quan đến ma tuý. Bản gần như chỉ còn lại phụ nữ, trẻ em. Mọi công to, việc lớn đều dồn lên vai các bà, các chị. Đó là tình trạng đáng lo ngại ở bản Bò Liêm, xã Tân Sơn (Mai Châu) khi cơn bão ma túy ập đến. Tết này, nhiều gia đình không được xum họp...

Ký ức không quên trên đất nước Lào

(HBĐT) - Sau nhiều năm trở về nước, nhiều người lính tình nguyện Việt Nam năm xưa không thể quên được những tình cảm mà những người lính, người dân Lào đã dành cho mình. Nhiều người nay đã già chỉ muốn nghe một bài hát, ăn một nắm xôi, một ít “chẹo” để nhớ lại những năm tháng ở nước bạn.

Bài 2: Chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ và tầm vóc Việt Nam

(HBĐT) - “Trong 12 ngày đêm chống lại cuộc tập kích lớn nhất trong lịch sử chiến tranh bằng không quân của nước Mỹ, cho dù tương quan về sức mạnh quân sự nghiêng hẳn về phía Mỹ nhưng ta vẫn giành thắng lợi, bắn rơi 34 máy bay B52 và hàng chục máy bay các loại buộc Mỹ phải ký kết hiệp định Pari rút quân về nước và công nhận Việt Nam là một quốc gia. Chiến thắng đó đã khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và tầm vóc của dân tộc Việt Nam, mở đầu cuộc nói chuyện với cánh lính trẻ Đoàn H50, vị tướng Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Phiệt đã nhấn mạnh.

Bài 1: Chuyện kể của vị tướng già

(HBĐT) - Không hẹn nhưng chúng tôi được Thượng tá Lưu Văn Đại, Chính ủy Đoàn H50 cho biết: “Nhân kỷ niệm 40 năm chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, chúng tôi có mời Trung tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Phiệt, người trực tiếp chỉ huy tiểu đoàn tên lửa 52 chiến đấu bắn rơi 4 máy bay B52 trong 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội năm 1972”. Với chúng tôi và cả cánh lính trẻ Đoàn H50 đều coi đó là một dịp may hiếm có để được nghe, được sống lại không khí chiến đấu trong 12 ngày đêm của những con người quả cảm, kiên cường.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục