Đoàn cán bộ Hội Nhà báo tỉnh thăm viếng nghĩa trang liệt sỹ Điện Biên Phủ.

Đoàn cán bộ Hội Nhà báo tỉnh thăm viếng nghĩa trang liệt sỹ Điện Biên Phủ.

(HBĐT) - Ngày ấy, họ đều ở cái tuổi 20. Hừng hực sức trẻ, hừng hực quyết tâm chiến đấu. Dẫu cho phía trước là gian khó với “mưa rừng, cơm vắt, máu trộn bùn non”. Nhưng chẳng có ai lùi bước. Người trước ngã xuống, người sau lại tiếp bước tiến lên... để làm một Điện Biên Phủ (ĐBP) huyền thoại, một ĐBP gây chấn động địa cầu cách đây 59 năm.

 

Điện Biên Phủ - ngày trở về

 

Nghĩa trang chiến dịch ĐBP (thành phố ĐBP) khi chúng tôi đến, vẫn một màu trắng hoang hoải. Nhưng lạ, chẳng có cảm giác buồn lạnh lẽo mà ngược lại vẫn luôn là cái cảm giác gần gũi với nhịp đập  những trái tim hồng của người lính thuở 20 còn nằm lại. Đó cũng là những cảm xúc của những người lính Điện Biên năm xưa khi trở về thăm lại chiến trường xưa. Thành phố ĐBP ngày nay vẫn còn đó cánh đồng Mường Thanh rộng ngút màu nắng với sóng lúa dập dờn; còn đó cầu Mường Thanh thuở rầm rập quân đi; còn đó đồi A1 với dấu vết của khối thuốc nổ nghìn cân, còn đó sở chỉ huy của Pháp tại cứ điểm ĐBP nơi viên bại tướng Đờ Cát bị bắt và ĐBP vẫn còn nhiều lắm dấu tích chiến tranh... Nhưng ĐBP ngày nay đã khác hoàn toàn so với thung lũng lòng chảo ĐBP cách đây 59 năm khi quân Pháp đã lựa chọn để xây dựng một cứ điểm mà chúng cho là “bất khả xâm phạm”. Trong chuyến công tác ĐBP cách đây chưa lâu, chúng tôi may mắn được gặp đoàn “chiến sỹ ĐBP” tỉnh Thái Bình về thăm lại chiến trường xưa. Gặp họ, trò chuyện với họ mới thấy ý chí quật cường, lòng tự hào dân tộc trong mỗi người lính năm xưa lớn đến nhường nào. Với họ, sau chiến thắng có người đã từng trở lại ĐBP và có người mới chỉ lần đầu trở lại chiến trường xưa. Dù cho tóc đã bạc, lưng còng, râu tóc bạc như cước, có cụ mắt đã mờ, chân đã chậm nhưng khi về đây, họ đều tràn đầy sức sống bởi ĐBP vẫn còn trong ký ức của họ như thuở vừa tròn tuổi 20 với sự tàn khốc của chiến tranh, với một cánh đồng Mường Thanh còn phủ kín bom đạn và hàng rào dây thép gai; với chi chít hầm hào, cả với những nước mắt, nụ cười sau mỗi trận đánh. “Về ĐBP, tôi vẫn còn có cảm giác như mình đang là một người lính. Vẫn còn vẳng bên tai tiếng hô “xung phong” của đồng đội”, một cựu binh già vui vẻ nói với những người cùng đi. Câu nói ấy như khơi lại dòng chảy ký ức trong mỗi người lính ĐBP năm xưa. Trong ồn ào của phố sá thành phố ĐBP, tôi vẫn còn nghe rõ những câu chuyện của các cụ với dòng chảy ký ức “nơi này chúng tôi đào hầm, đào hào”, nơi kia “đại đội tôi bắn rơi chiếc máy bay Dakota”... và cả những ký ức về những con đường, cây cầu Mường Thanh khi họ trở về trong chiến thắng rạng rỡ nụ cười với cờ, hoa sau “56 ngày đêm ngủ hầm, mưa rừng, cơm vắt, máu trộn bùn non”. Nơi nghĩa trang liệt sỹ ĐBP (Nghĩa trang liệt sỹ A1), kính cẩn thắp nén hương tri ân cho những đồng đội đã anh dũng hy sinh trong chiến dịch ĐBP, nhìn vào đôi mắt, ai cũng đỏ hoe. “Trong mưa bom bão đạn giữa lòng chảo ĐBP, người ta có thể chết bất cứ lúc nào. Nhưng khi ấy, cũng chẳng ai mảy may, đắn đo về ranh giới sống - chết mong manh ấy. Chỉ biết quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, chiến đấu quên mình cho chiến dịch”, một cựu binh là chiến sỹ ĐBP năm xưa nghẹn lời như lý giải cho màu trắng tang thương hiện hữu ngay trước mắt. 4.020 người chết, 9.118 người bị thương, 792 người bị mất tích trong cuộc chiến “56 ngày đêm”. Đó là những con số thống kê chưa đầy đủ, là nỗi mất mát đớn đau nhưng cũng là niềm tự hào bất tận. Cả nghĩa trang có hàng ngàn ngôi mộ mà hầu hết đều là mộ liệt sỹ vô danh. Cùng với đó là ngôi mộ của 4 người anh hùng đã được lịch sử tôn vinh như những huyền thoại: Trần Can, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện. Còn lại, tên các liệt sỹ được đúc chữ đồng theo danh sách từng tỉnh, thành phố. Nghĩa trang liệt sỹ ĐBP là minh chứng cho sự khắc nghiệt của cuộc chiến “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non”. Dẫu thế, trong dòng chảy ký ức của những người lính Điện Biên Phủ năm xưa vẫn còn nguyên khuôn mặt đen nhẻm màu khói súng, còn tươi rói những nụ cười của đồng đội, những người đã nằm lại ở chiến trường ĐBP năm xưa.     

  

Cái tên ĐBP, miền đất cuối trời Tây Bắc đã ăn sâu, ở lại mãi mãi trong tiềm thức những người lính năm xưa. Để mỗi dịp tháng 5 về lại bồi hồi, sống dậy những ký ức thuở đôi mươi của những cụ ông, cụ bà nay đã lùi xa 59 năm rồi. 

 

Tất cả cho tiền tuyến lớn

 

Chúng tôi may mắn khi được nghe vợ chồng ông Văn Hồng Lương - những chiến sỹ ĐBP năm xưa kể cho nghe về thời còn đi chiến dịch trước khi ông qua đời vì cơn bạo bệnh. ông là bộ đội, còn bà là dân công hỏa tuyến. Họ gặp nhau trên đường ra chiến dịch và nên duyên vợ chồng sau khi kết thúc chiến dịch. Trong câu chuyện của họ, đó là những gian truân, vất vả trên đường hành quân, vận chuyển lương thực, thực phẩm bằng xe thồ băng rừng, vượt dốc lên phục vụ chiến trường. Còn với ông Giang Hồng Phúc, ký ức trong chiến dịch ĐBP là những nụ cười của đồng đội sau trận đánh công đồn nơi lòng chảo Mường Thanh để thít sợi dây thòng lọng vào tập đoàn cứ điểm mà thực dân Pháp vẫn luôn huênh hoang đó là một nơi “bất khả xâm phạm”. “Không chỉ những người lính như chúng tôi mà ngay sau khi Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch ĐBP vào tháng 11/1953, cùng với nhân dân các tỉnh, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã sục sôi tinh thần, ý chí chiến đấu với tinh thần tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng” - ông Nguyễn Quốc Sự, CCB thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở xóm Dụ, xã Mông Hóa (Kỳ Sơn) bồi hồi nhớ lại.

 

Được giao nhiệm vụ tiếp nhận, tập kết nguồn chi viện sức người, sức của từ đồng bằng Liên khu 3, Liên khu 4, Đảng bộ, chính quyền, LLVT và nhân dân tỉnh Hòa Bình đã khẩn trương làm tốt công tác chuẩn bị kho tàng, bến bãi. Đồng thời, triển khai hiệu quả đấu tranh chống lại sự quấy phá bằng không quân của địch nhằm chặt đứt con đường vận chuyển của ta. Thực hiện chủ trương bảo đảm thông suốt các tuyến vận tải qua Hòa Bình, huy động nhân lực, mọi phương tiện để tiếp nhận, vận chuyển lương thực, đạn dược ra mặt trận; vận chuyển, chăm sóc thương binh, xay, giã thóc, gạo, cung cấp thực phẩm cho mặt trận; đón, giúp đỡ dân công từ Liên khu 3, Liên khu 4 qua Hòa Bình lên Tây Bắc của Tỉnh ủy, quân và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã tích cực tổ chức lực lượng tham gia bảo vệ hậu phương vững chắc, bám địch, đánh địch không cho chúng xâm nhập vào nội địa, bảo đảm an toàn kho tàng, giao thông vận chuyển, an ninh xã hội; tham gia vận động, đóng góp sức người, sức của phục vụ chiến trường. “Bước vào chiến cuộc đông - xuân 1953 - 1954, nhất là từ khi khẩn trương chuẩn bị chiến dịch ĐBP, nhân dân các dân tộc trong tỉnh từ vùng thấp đến vùng cao, sâu, xa đều sôi động, hăng hái thi đua với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”. Ai cũng hăng hái đi dân công, xây dựng kho tàng, lán trại, đón tiếp giúp đỡ các đoàn dân công, đơn vị bộ đội, dân công tải lương thực, thực phẩm, giúp đỡ làm cầu vượt sông, qua suối...” - ông Giang Hồng Phúc khi ấy là cán bộ trợ lý tác huấn của Trung đoàn 12 Hòa Bình nhớ lại.

 

Cùng với đó, từ tháng 1/1954, trước yêu cầu khẩn trương chuẩn bị cho chiến dịch ĐBP, tỉnh Hòa Bình được giao nhiệm vụ tham gia sửa chữa đoạn đường từ Hòa Bình lên Mộc Châu (Sơn La) LLVT, TNXP và hơn 3.000 dân công của tỉnh đã tham gia tu sửa, tôn cao, mở rộng trên 70 km đường, kịp thời phục vụ bộ đội, dân công và các đoàn xe thồ, xe ôtô ra mặt trận. Tổng kết chiến dịch ĐBP, toàn tỉnh đã huy động 381.292 lượt dân công, 905 xe đạp thồ, vận chuyển 4.900 tấn hàng hóa, huy động 170.000 ngày công xay giã 545 tấn thóc cho bộ đội. Cùng với sức người, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã cung cấp cho mặt trận 39.517 kg thịt trâu, bò, 1.840 m3 gỗ, hàng vạn cây tre, bương... Từ những đóng góp đó đã góp phần quan trọng vào chiến thắng ĐBP ngày 7/5/1954 để đưa đất nước bước vào giai đoạn lịch sử mới.

 

                                                                   Mạnh Hùng

 

 

 

Các tin khác

Sau 56 ngày đêm chiến đấu, ngày 7/5/1954, quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ. Lá cờ quyết chiến quyết thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng các đơn vị tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. (ảnh: T.L)
Đoàn công tác tỉnh Hòa Bình thăm di tích lịch sử Củ Chi.
Cán bộ, chiến sĩ Đồn biên phòng Đàm Thủy và nhân dân  địa phương phối hợp tuần tra biên giới.
Câu chuyện dân quân, du kích xã Mường Chiềng bắn cháy chiếc máy bay F4H ngày 30/4/1967 luôn được ông Xa Văn Chủng kể cho con cháu nghe.

"Đội biệt động người nhái" ở thủy điện Hòa Bình

(HBĐT) -Thủy điện Hòa Bình không chỉ nổi tiếng bởi đây là "công trình thế kỷ” - mỗi năm sản sinh 8,1 tỉ KWh điện- mà ở nơi đó còn có những con người hết sức đặc biệt.

Nhà tù Sơn La - Nơi rèn luyện ý chí cách mạng cho các thế hệ

(HBĐT) - Những ngày tháng tư lịch sử, chúng tôi cùng đoàn nhà báo trẻ tỉnh Phú Thọ rời thành phố Hòa Bình để ngược lên miền Tây Bắc thăm mảnh đất lịch sử Sơn La. Dù đã nhiều lần được đến Sơn La nhưng mỗi lần trong chúng tôi đều có một cung bậc tình cảm khác nhau. ấn tượng của chúng tôi không chỉ là những cung đường ngoằn nghèo như sợi chỉ mảnh nằm lưng chừng núi, màu trắng tinh khiết của hoa ban rừng mờ ảo trong sương; những dân tộc chất phác, mộc mạc, hiếu khách trong các bản làng giữa đại ngàn mà ở vùng đất này đang lưu giữ nhiều chứng tích lịch sử, ghi dấu một thời cha ông đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.

Đường về Việt Bắc Bài 4: Điểm khởi đầu của 2 tuyến giao thông huyết mạch

(HBĐT) - Với vị trí địa lý là những tỉnh địa đầu Tổ quốc, do vậy, Cao Bằng và Lạng Sơn cũng là những điểm xuất phát, khởi đầu của những con đường huyết mạch đi suốt chiều dài đất nước.

Đường về Việt Bắc Bài 3: Chuyện ghi ở nơi biên cương đất mẹ

(HBĐT) - Ít nhiều cũng đôi ba lần chúng tôi có dịp được đến vùng biên với cảm giác hoang hoải buồn trên những cánh hoa sim tím biếc. Trong chuyến đi về Đồn biên phòng (BP) Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh (Cao Bằng), trong thâm tâm chúng tôi vẫn nghĩ và nhớ về những chiều biên giới mênh mông buồn. Nhưng thực tế lại không như những gì mà chúng tôi vẫn tưởng tượng trên suốt chặng đường gần 100 km từ thành phố Cao Bằng về Trùng Khánh...

Pắc Bó - Nơi suối nguồn cách mạng

(HBĐT) - Trong ngôn ngữ của đồng bào dân tộc Tày vùng đất Cao Bằng, hai từ “Pắc Bó” được hiểu là cội núi, nguồn sông. Nơi đây được ví như nơi đầu nguồn của những con suối mát lành nuôi dưỡng đất mẹ. Cũng ở chính nơi ngọn nguồn dòng nước mát lành, nơi rừng núi hoang vu rộn ràng tiếng chim, sau bao năm bôn ba xứ người, tháng 2/1941, khi về nước, Bác Hồ đã chọn Pắc Bó để khơi mở một dòng suối cách mạng...

Đường về Việt Bắc

(HBĐT) - Việt Bắc là danh từ chung chỉ 6 tỉnh: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Cao Bằng và Lạng Sơn. Vùng đất này từng được coi là Thủ đô kháng chiến, là nơi trú đóng, hoạt động cách mạng của Bác Hồ và những chiến sỹ ưu tú trong thời kỳ trước cách mạng tháng 8/1945 và cũng là nơi Chính phủ Việt Minh lựa chọn làm căn cứ kháng chiến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945 - 1954... Có một may mắn là trong những ngày cuối tháng 3, chúng tôi có dịp được về Việt Bắc thăm lại phong cảnh sơn thủy hữu tình nơi ngọn nguồn cách mạng...

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục