(HBĐT) - Thời kỳ mới tái lập tỉnh, mạng lưới bưu chính viễn thông tỉnh ta nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, nhiều huyện không có đường thông về tỉnh, nhiều thị trấn huyện không nhận được báo trong ngày. Đến nay, hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin (CNTT), bưu chính- viễn thông phát triển nhanh, phủ kín toàn tỉnh với chất lượng dịch vụ ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH và nhu cầu sử dụng của nhân dân.

 

Trong giai đoạn từ năm 1993 - 2000, ngành Bưu điện tỉnh thực hiện chiến lược tăng tốc, đổi mới toàn diện, đi thẳng vào kỹ thuật tiên tiến; xây dựng mạng lưới bưu chính - viễn thông rộng khắp, đồng bộ, đa dịch vụ. Nhờ đó, chất lượng dịch vụ bưu chính - viễn thông dần được cải thiện. Giai đoạn này, các dịch vụ bưu chính tăng bình quân 30%/năm. Hệ thống các bưu cục đã được trải rộng, đều trong toàn tỉnh. Đến hết năm 2000, toàn tỉnh đã có 112 điểm bưu điện văn hóa xã hoạt động, phân bố đều cả 3 vùng, đã rút ngắn bán kính phục vụ của 1 bưu cục từ 25 km xuống còn 3,5 km; số dân phục vụ giảm từ 35.000 người/bưu cục xuống 7.000 người/bưu cục. Các dịch vụ bưu chính đã về đến các bản, làng vùng cao, sâu, vùng dân tộc ít người. Trong giai đoạn này, dịch vụ viễn thông cũng có tốc độ phát triển khá cao; toàn mạng đã dùng kỹ thuật số; các phương thức thông tin công nghệ cao như thông tin vệ tinh (VSAT), cáp quang đều đã được đưa vào sử dụng, đã cải thiện rõ rệt chất lượng thông tin. Số lượng máy điện thoại đến hết năm 2000 tăng 15 lần so với năm 1993, mật độ điện thoại từ 0,07 máy/100 dân tăng lên 1,45 máy/100 dân. Số xã có điện thoại đạt 68%, số máy điện thoại về xã tăng 90 lần. Các dịch vụ mới cũng được phổ cập và có chất lượng cao như thông tin di động, Cardphone, 108...

 

Thực hiện chiến lược hội nhập và phát triển, từ năm 2001 đến nay, tỉnh ta đã tiến hành thay thế toàn hệ thống chuyển mạch đảm bảo đồng bộ và tương thích với các hệ thống chuyển mạch khác trong và ngoài nước. Xây dựng vòng Ring cáp quang trên phạm vi toàn tỉnh. Thiết lập mạng viễn thông nông thôn công nghệ cao. Phát triển mạnh các dịch vụ chất lượng cao, trong đó ưu tiên phát triển mạng Internet. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh hiện có 5 doanh nghiệp có hạ tầng viễn thông và cung cấp các dịch vụ viễn thông, Internet với 16 tổng đài chuyển mạch; 210 xã có dịch vụ điện thoại cố định, đạt 100%; tỷ lệ phủ sóng di động theo khu dân cư là  95%; 210 xã, phường, thị trấn có trạm thu phát sóng di động (BTS), đạt tỷ lệ 100%. Hiện, toàn tỉnh có  1.371 trạm BTS được xây trên 794 vị trí. Cáp quang đã đến trung tâm 210 xã, đạt tỷ lệ 100%; 184 xã có dịch vụ Intenet băng thông rộng ADSL, đạt tỷ lệ 87,6%. Chất lượng, số lượng dịch vụ cũng không ngừng được đầu tư nâng cao. Số lượng thuê bao Internet (ADSL và FTTH) ước đạt trên 35.558 thuê bao. Tổng thuê bao điện thoại trên toàn mạng đến nay đạt khoảng trên 62.000 thuê bao. Tỷ lệ máy điện thoại đạt gần 80 máy/100 dân. Tỷ lệ số thuê bao Internet 3 thuê bao/100 dân...

 

Mạng bưu chính phát triển rộng khắp với đa dịch vụ, hiện trên địa bàn tỉnh có 2 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này với 213 điểm phục vụ bưu chính (trong đó có 189 điểm Bưu điện văn hóa xã). Mạng lưới khai thác gồm 27 bưu cục, trong đó có 1 bưu cục khai thác cấp I và 10 bưu cục khai thác cấp II, còn lại là bưu cục cấp III. Bán kính phục vụ bưu chính 2,6 km/1 điểm phục vụ. Đến năm 2000, mạng bưu chính đã bỏ hoàn toàn quy trình khai thác truyền thống, xây dựng một quy trình mới trên cơ sở các hợp đồng liên danh, liên kết với các công ty dọc ngành. Theo đó, đã đưa báo đến 100% xã trong ngày xuất bản, khắc phục tình trạng có tới 4 huyện báo không tới được trong ngày, 20% xã phải nhận báo sau 5 ngày, 40% xã nhận báo sau 3 - 4 ngày trong giai đoạn đầu mới tách tỉnh. Hiện, các dịch vụ bưu chính mới đã được triển khai trên địa bàn như: Dịch vụ chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH; chuyển phát hành chính công; kinh doanh đa dịch vụ phục vụ nhân dân; cho vay tín dụng đối với đối tượng có lương hưu, CB, CNVC và lực lượng vũ trang.

 

Đặc biệt, hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể từng bước được đầu tư hiện đại. Việc ứng dụng CNTT đã có những chuyển biến tích cực, nhận thức của xã hội về vai trò ứng dụng CNTT được nâng lên rõ rệt. Hệ thống Cổng thông tin điện tử của tỉnh và trang thông tin điện tử các sở, ngành và UBND huyện, thành phố được quan tâm đầu tư đã góp phần từng bước minh bạch hóa hoạt động của cơ quan Nhà nước. Đến nay, 100%  sở, ban, ngành và UBND các huyện, thành phố có mạng nội bộ và kết nối Internet băng thông rộng. 63% cán bộ, công chức trong các cơ quan Nhà nước được trang bị máy tính, trong đó có 93% máy tính kết nối Internet. Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước đã được triển khai tại 63 điểm (33 điểm tại các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thành phố). 32/32 sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố được cấp, phát và hướng dẫn sử dụng chữ ký số chuyên dùng để trao đổi văn bản điện tử trong công tác chỉ đạo, điều hành. Trên 80% doanh nghiệp có kết nối Internet sử dụng băng thông rộng. Hệ thống thư điện tử đã tạo lập được trên 3.000 tài khoản để trao đổi văn bản, tài liệu điện tử; 100% sở, ban, ngành đã ứng dụng phần mềm quản lý, điều hành. Hệ thống hội nghị truyền hình đã triển khai ở 12 điểm cầu, đảm bảo 100% cuộc họp của UBND tỉnh với các huyện, thành phố thực hiện trên môi trường Internet.

 

                                                                      Vũ Tùng (TH)

 

 

Các tin khác

Không có hình ảnh

Bài 8: Quy hoạch xây dựng, kiến trúc, phát triển đô thị được coi trọng

(HBĐT) - Sau 25 năm tái lập tỉnh, công tác quy hoạch xây dựng, kiến trúc, phát triển đô thị đã từng bước thể hiện được vai trò của mình trong tổng thể quá trình phát triển KT -XH tại địa phương. Các đồ án quy hoạch đã được đặt trong hệ thống phối hợp toàn diện với nhiều ngành liên quan và địa phương. Việc mở rộng đô thị và tăng tỷ lệ đô thị hóa, đẩy mạnh các chương trình nhà ở, thực hiện các dự án nâng cấp đô thị, kết nối và hoàn thiện các trung tâm công cộng... để tạo cảnh quan đô thị đáp ứng nhu cầu về môi trường ở, làm việc, đi lại, nghỉ ngơi, giải trí cho toàn xã hội.

Bài 10: Hòa Bình thời Pháp thuộc (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX)

(HBĐT) - Dưới thời Nguyễn chưa có tỉnh Hòa Bình. Lúc đó, miền đất Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Phú Thọ và một phần Lào Cai, Yên Bái, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Hà Tây được gộp vào một tên chung là tỉnh Hưng Hóa. Tuần phủ Hưng Hóa lúc Pháp xâm lược nước ta là nhà yêu nước Nguyễn Quang Bích...

Bài 7: Kết cấu hạ tầng giao thông được chú trọng đầu tư

(HBĐT) - Sau 1/4 thế kỷ tái lập tỉnh, từ chỗ giao thông đi lại hết sức khó khăn, đến nay, hạ tầng GTVT đã có bước phát triển vượt bậc, từng bước hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu đi lại, tiêu thụ sản phẩm, lưu thông hàng hóa, thu hút đầu tư, xóa đói - giảm nghèo, tạo liên kết giữa các vùng miền, thúc đẩy phát triển KT-XH.

Bài 9: Nhân dân Hòa Bình trong các cuộc đấu tranh chống ách phong kiến và giặc phương Bắc

(HBĐT) - Trong lịch sử hàng ngàn năm qua, các dân tộc ở Hòa Bình đã phải cùng nhau đấu tranh, vật lộn với thiên nhiên, xã hội để tồn tại, phát triển. Trong đó phải ghi nhận những phong trào nông dân chống áp bức phong kiến và đánh giặc ngoại xâm, giữ vững sự ổn định, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất (1739 - 1769), khởi nghĩa Quách Tất Liêm (1808 - 1819) của Lê Duy Lương (1833 - 1838) và sự tham gia chống quân xâm lược nhà Minh, tham gia cuộc đại phá quân Thanh năm 1789 của nhân dân Hòa Bình…

Bài 6: Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng

(HBĐT) - Sau 25 năm tái lập, cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch mạnh theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành dịch vụ. Đến hết năm 2015, tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 26,6%, tăng 10,27% so với năm 1991. Các ngành dịch vụ phát triển nhanh, đa dạng thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của người dân.

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Mo Mường

(HBĐT) - Ngày 19/1/2016, Bộ VH-TT&DL có Quyết định số 246/QĐ-BVHTTDL về việc công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Trong đó, tỉnh ta có 2 di sản được đưa vào danh mục là nghệ thuật chiêng Mường và Mo Mường. Để bạn đọc hiểu biết nhiều hơn về Mo Mường, Báo Hòa Bình xin giới thiệu những nét cơ bản nhất của những áng Mo và việc bảo tồn và phát huy những giá trị của di sản văn hóa phi vật thể Mo Mường.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục