(HBĐT) - Kiến trúc nhà cửa của đồng bào các dân tộc tỉnh Hòa Bình luôn chiếm được sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu, sưu tầm cũng như du khách gần xa. Mỗi dân tộc có nét riêng, tạo nên sự độc đáo, phong phú cho các làng bản, cộng đồng.
Nhà sàn Mường cổ truyền thường có 2 vì kèo, 4 cột cái tượng trưng cho 4 chân con rùa và 8 cột con, 4 mái tượng trưng cho mu rùa, bởi tín ngưỡng dân gian của người Mường coi rùa là biểu trưng cho sự bền vững. Bốn mái nhà có độ dốc vừa phải, gồm mái trước và mái sau có hình thang cân, hai mái nhỏ hơn ở hai đầu hồi hình tam giác cân. Hai cạnh xiên của hai mái chính (mái trước và mái sau) bao giờ cũng chờm lên các cạnh xiên của hai mái đầu hồi khoảng 30 - 50 cm để tránh mưa gió tạt vào trong nhà. Hai mái chính thường kéo dài xuống sát cửa sổ vốn dĩ ít nên nội thất hơi thiếu sáng. Bộ khung nhà thường có 4 cột cái, 8 cột con, chân cột được chôn thẳng xuống đất hay kê trên phiến đá. Làm nhà nhỏ chỉ cần 2 cột cái, 4 cột con là đủ. Nhà sàn truyền thống của người Mường thường không tạo lối đi hay hàng lan can ở phía trước, nếu làm lối đi thì hạ thấp một bậc và ở phía sau sàn nhà. Trải qua thời gian và di chuyển đến các địa bàn khác nhau, ngôi nhà sàn truyền thống của người Mường cũng có những biến đổi nhất định, song vẫn giữ được những đặc điểm chung dễ nhận biết, như: Cầu thang chính bằng gỗ luôn có số bậc lẻ (5, 7, 9, 11...), đặt tại đầu hồi bên phải của nửa nhà trước hay sau, dưới chân cầu thang thường có một phiến đá hoặc tấm gỗ dày ở bên cạnh một bồn gỗ hay chum, ống bương đựng nước cùng với một cái gáo tre nhỏ để khách rửa chân trước khi bước lên sàn nhà; cầu thang phụ đặt ở đầu hồi trái dành cho phụ nữ đi lại và làm nội trợ. Nhà sàn cổ truyền có 3 mặt bằng: Gầm sàn là nền đất dùng để nhốt gia súc, đặt cối xay thóc, cối giã gạo, củi, nông cụ (cày, bừa, liềm, hái); gác xép giáp mái nhà là kho cất chứa lương thực, dụng cụ xe sợi, dệt vải, những đồ lặt vặt chưa dùng đến; sàn nhà là mặt bằng sinh hoạt chính của cả gia đình, nơi diễn ra các hoạt động ăn uống, ngủ, nghỉ, thờ cúng tổ tiên, bàn bạc việc nhà, dệt vải, khâu quần áo, chăn màn... Các chức năng trên được xếp đặt quy củ tại những vị trí quy định từ đời trước sang đời sau, không hề xáo trộn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của mọi lĩnh vực đời sống, khuôn viên, nhà ở của người Mường tại các địa phương có những đổi thay đáng kể. Những nếp nhà sàn cổ truyền hầu như biến mất, tỷ lệ nhà đất tăng, nhà sàn giảm. Những nhà sàn mới được xây cất cũng có những biến đổi quan trọng: Bộ khung nhà, mái nhà, vách nhà trước kia làm bằng gỗ, lá được thay thế bằng các vật liệu mới như: Sắt, thép, ngói, tôn, tấm lợp, kính, nhựa... bền chắc và tiện lợi hơn. Theo đó, việc bài trí không gian sinh hoạt cũng thay đổi…
Người Thái ở Hòa Bình cư trú chủ yếu tại huyện Mai Châu. Người Tày cư trú chủ yếu ở huyện Đà Bắc. Đơn vị dân cư cơ sở của người Thái, người Tày là bản, trên bản là Mường. Bộ khung nhà của người Thái chỉ có 2 kiểu vì cơ bản, từ đó dẫn đến 2 kiểu nhà sàn. Kiểu thứ nhất gồm 2 cột cái và 1 quá giang. Để tạo thành bộ khung nhà phải liên kết các vì kèo với nhau bằng 2 cây đòn tay lắp vào đầu các cột và 2 thanh dầm ở 2 thân cột. Tiếp đến đặt kèo lên các đầu cột, vì vậy kèo thuộc bộ khung mái nhà chứ chưa phải là một bộ phận như thuộc cột. Kiểu thứ hai là kiểu vì mở rộng bằng cách thêm 2 cột con ở 2 bên, bởi vậy kết cấu vì có sự thay đổi: đầu 2 cột cái vẫn giữ theo kiểu thứ nhất, 2 đầu cột con theo quy cách kèo - cột - xà giống vì kèo nhà người Tày. Người Thái, người Tày chủ yếu ở nhà sàn, lên sàn nhà bằng các cầu thang gỗ với số bậc lẻ như của người Mường. Nhìn chung, nhà sàn Thái - Tày cao rộng hơn, nhiều cửa sổ, gầm sàn cao hơn nhà sàn Mường. Đuôi (chân) mái trước, mái sau đều ngắn nên cao hơn thành cửa sổ khiến nội thất có nhiều ánh sáng, ngay cả trong những ngày mưa và khi chưa có đèn điện thì không gian trong nhà cũng không quá tối. Những năm 1970 - 1980 trở về trước, ở Mai Châu còn khá nhiều nhà sàn rất rộng. Vì nhiều lý do, những ngôi nhà sàn truyền thống điển hình hiện không còn nữa.
Người Dao có nhiều ngành nhưng ở Hòa Bình chỉ có hai ngành Dao Tiền và Dao Quần Chẹt. Nhà ở của người Dao có hai kiểu: Nhà nửa sàn nửa đất và nhà đất; mỗi kiểu nhà gắn với một kiểu thôn, xóm của họ. Nhà nửa sàn nửa đất là kiểu nhà của những thôn, xóm phân tán. Nhà đất là kiểu nhà của những thôn, xóm tập trung. Dù là nhà nửa sàn nửa đất hay nhà đất thì vẫn có điểm giống nhau về bố trí nội thất, đó là ngôi nhà nào cũng phải có một gian riêng biệt có vách ngăn bằng ván gỗ hay phên nứa chạy theo chiều dọc nhà, đồng thời có thêm một đoạn vách ngăn với gian bên. Trong một góc của gian này có đặt bàn thờ gia tiên. Sau đoạn vách ngăn dọc là một buồng chứa lương thực, thực phẩm. Nhìn chung, nhà ở của người Dao Tiền cũng như nhà ở của người Dao Quần Chẹt đều đơn giản, ít được trang trí, không có những nét đặc sắc, độc đáo so với kiến trúc nhà ở của đồng bào các dân tộc sinh sống ở Hòa Bình. Do giao lưu kinh tế, văn hóa - xã hội rộng rãi nên từ nhiều năm nay, phần đông người Dao đã làm nhà ở như nhà của người Kinh, trong đó, một số gia đình vẫn phân chia và xếp đặt nội thất theo lối truyền thống.
Người Mông ở Hòa Bình cư trú tập trung tại 2 xã Pà Cò, Hang Kia (Mai Châu). Từ xưa đến nay, dù thuộc ngành nào thì người Mông cũng chỉ ở nhà nền đất, vách nhà được thưng bằng phên tre, phên nứa hoặc ván gỗ nhưng cũng ít cửa sổ. Nhà thường có 3 - 5 gian, có nhà có chái. Gian giữa nhà là nơi đặt bàn thờ tổ tiên (bàn thờ thường rất nhỏ, được gắn ngay vào vách nhà, có khi chỉ là một mảnh giấy đỏ có những chiếc lông gà được dán bằng tiết gà), đây cũng là nơi tiếp khách, bàn bạc việc nhà; gian này có một cột chống nóc ở giữa nhà gọi là cột trụ hay cột thiêng. Các gian bên phải và bên trái là buồng ngủ, bếp nấu ăn. So với nhà ở của các dân tộc khác ở Hòa Bình, nhà ở của người Mông có kết cấu đơn giản, thường thấp và ít thay đổi theo thời gian.
V.T (TH)
(HBĐT) - Nhằm đẩy mạnh phong trào cách mạng Hòa Bình tiến lên một bước mới đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, cuối tháng 1/1945, đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt T.Ư Đảng quyết định thành lập Ban Cán sự Đảng (BCSĐ) tỉnh, cử đồng chí Vũ Thơ làm Bí thư.
(HBĐT) - Hướng tới kỷ niệm 135 năm thành lập tỉnh và 30 năm tái lập tỉnh, Báo Hòa Bình mở chuyên mục "Đảng bộ tỉnh Hoà Bình - những mốc son lịch sử" tuyên truyền về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Hòa Bình trong lãnh đạo giành chính quyền trên địa bàn tỉnh cũng như củng cố, xây dựng chính quyền nhân dân, lãnh đạo phát triển KT-XH, xây dựng quê hương Hoà Bình giàu mạnh.
(HBĐT) - Hòa Bình luôn tạo ấn tượng, sức hút đối với du khách gần xa bởi bản sắc văn hóa đa dạng, phong phú (kiến trúc nhà cửa, trang phục, dân ca, dân vũ, lễ hội…), trong đó, ẩm thực của đồng bào các dân tộc thiểu số cũng chứa đựng nhiều điều cần khám phá.
(HBĐT)-Ngày 27/1/1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh
lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Phấn khởi trước thắng lợi vừa giành
được, từ tháng 3/1973, theo chỉ thị của Tỉnh ủy, các địa phương, đơn vị tiến
hành đợt tổng kết 8 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1965-1972). Tổng kết nêu rõ: Từ năm 1965 - 1972, tổng số bom đạn Mỹ sử dụng đánh phá trong
tỉnh là 5.315 quả và hàng chục nghìn đạn 20 ly. Để chủ động tiêu diệt máy
bay địch khi chúng đến xâm phạm địa bàn, lực lượng vũ trang trong tỉnh đã độc
lập và phối hợp chiến đấu 853 trận, bắn rơi 49 máy bay... Dân quân tự vệ đã huy
động 436.015 ngày công để làm đường vòng tránh, sửa chữa cầu phà bảo đảm giao
thông, đào đắp 225.180 hố cá nhân, 214.796 hầm tập thể, 1.194.500 m giao thông
hào để phòng tránh, cơ động đánh địch. Vừa chiến đấu, vừa sản xuất, phát huy
tinh thần tự lực tự cường, lực lượng vũ trang tỉnh tham gia lao động sản
xuất, thực hành tiết kiệm, tự túc được 36.440 kg gạo, 8.600 kg thịt lợn, 43.550
kg rau xanh, khai thác được 395 m3 đá, 37.000 viên đá ong,
1.211 m3 gỗ tròn, 36.000 cây tre, bương; sản xuất 425.000 viên
gạch, 97.000 viên ngói để làm mới 736 gian nhà ngói, 1.292 gian nhà tre lá,
phục vụ cho các đơn vị tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, bảo đảm giao
thông...
(HBĐT) - Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Hòa Bình, mỗi dân tộc đều có nét bản sắc văn hóa riêng về trang phục (cả nam và nữ). Chính điều đó là điểm nhấn, góp phần làm đa dạng, phong phú hơn đời sống xã hội, tinh thần, văn hóa của cộng đồng các dân tộc Hòa Bình.
(HBĐT) - Ngoài các di tích, danh thắng tiêu biểu trên, tỉnh Hòa Bình còn có nhiều bản làng, các điểm du lịch nổi tiếng: