Bao đời nay, cộng đồng các dân tộc tỉnh Hòa Bình, đặc biệt là dân tộc Mường có những lễ hội riêng mang đậm nét văn hóa. Lễ hội gắn liền với những đặc điểm cụ thể về địa lý, tự nhiên và đời sống xã hội của các cộng đồng cư dân tồn tại ở đây từ lâu đời. Điều đó đã làm nên sự phong phú trong đời sống tinh thần và trong bản sắc văn hóa Hòa Bình; bộc lộ các tín ngưỡng dân gian và biểu hiện rõ sự giao lưu về văn hóa giữa các dân tộc. Trong đó, nhiều lễ hội có sức sống trường tồn cùng thời gian, tiếp tục được các thế hệ hôm nay lưu truyền, phát huy…Tiêu biểu là Lễ hội Khai hạ (LHKH) dân tộc Mường.
Lễ hội Khai hạ dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia,
luôn được sự quan tâm của cộng đồng các dân tộc trong tỉnh.
Ảnh BM
Năm 2022, LHKH dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. LHKH dân tộc Mường là lễ hội dân gian truyền thống lớn nhất của người Mường Hòa Bình, gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, mang nhiều dấu ấn của văn minh của người Việt cổ. Nhiều năm qua, lễ hội trở thành nét sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng không thể thiếu dịp Tết đến, Xuân về ở 4 Mường: Bi, Vang, Thàng, Động.
Mục đích của LHKH là cầu cho mùa màng tươi tốt, bội thu, đồng thời việc thực hành những nghi lễ cầu mùa cũng là dịp để người Mường nghỉ ngơi, giao lưu, vui chơi và bày tỏ ước vọng của mình về cuộc sống tươi đẹp, bình yên. Hiện nay, lễ hội được tổ chức quy mô hơn trước đây với những nghi lễ, hoạt động phong phú, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia...
Hội sắc bùa của người Mường được duy trì và có tính phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người Mường từ xa xưa. Đây là một hội vui có tính giải trí diễn ra vào dịp đầu năm mới ở những bản Mường để mọi người cầu chúc nhau may mắn, mạnh khỏe. Ngoài ra những dịp vui khác, người dân cũng sắc bùa như đón khách quý từ xa đến, dựng nhà mới, đón dâu… Bên cạnh đó, người Mường còn có các lễ hội khác như lễ cầu mưa, cầu mùa, lễ cơm mới, lễ đu tre. Nhiều lễ hội ở một số huyện gắn với các truyền thuyết, những địa danh cụ thể, sau một thời gian gây dựng nay đã có quy mô lớn hơn trong khâu tổ chức và được quảng bá rộng rãi trong và ngoài tỉnh. Như lễ hội Đình Cổi (xã Vũ Bình, huyện Lạc Sơn), lễ hội đình Vai (thị trấn Ba Hàng Đồi, huyện Lạc Thủy), lễ hội đền và miếu Trung Báo (xã Thanh Cao, huyện Lương Sơn), lễ hội Đình Xàm (xã Phú Lai, huyện Yên Thủy), lễ hội Chùa Tiên (xã Phú Nghĩa, huyện Lạc Thủy)… Đặc biệt, lễ hội đền Bờ ngày càng được du khách gần xa quan tâm, tham gia nhiều hơn. Hiện nay, đền Bờ được xây dựng 2 nơi: trên đỉnh đồi hang Thầu (xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc) và trên đồi thuộc xã Thung Nai (huyện Cao Phong). Tương truyền, năm 1431-1432, vua Lê Lợi đi dẹp giặc ở mường Lễ (Sơn La) qua đoạn Thác Bờ hiểm trở đã được người dân địa phương giúp đỡ tận tình. Trong số đó, có bà Đinh Thị Vân (người Mường ở xã Hào Tráng cũ) và một bà người Dao ở xã Vầy Nưa đã giúp nhà vua quân lương, thuyền bè vượt thác… Khi hai bà mất, vua Lê Lợi đã truy phong công trạng của 2 bà và ban chiếu cho lập đền thờ. Từ đó, người dân thường mở hội hằng năm vào tháng giêng để tưởng nhớ 2 bà và các vị thần. Bên cạnh là một trong những điểm nhấn của tour du lịch hồ Hòa Bình, đền Bờ được du khách tìm đến bởi có vị trí trong đời sống tâm linh, ngưỡng vọng của mỗi gia đình, du khách dịp đầu năm… Những năm gần đây, di tích và lễ hội đền Bờ thu hút rất đông du khách thập phương.
Lễ hội Gầu Tào của đồng bào Mông (huyện Mai Châu) luôn tạo được dấu ấn đặc biệt đối với du khách gần xa.
Trong cộng đồng các dân tộc anh em ở Hòa Bình, dân tộc Thái, Tày, Mông, Dao cũng có nhiều lễ hội đặc sắc, tạo nên nét bản sắc văn hóa mỗi dân tộc, mỗi vùng miền. Lễ hội Xên bản là một lễ hội phổ biến của người Thái ở Mai Châu. Lễ Xên bản chính là lễ cúng bản, cúng mường, thờ cúng thành hoàng bản Mường, những người lập nên bản người Thái. Lễ hội thể hiện tấm lòng tôn kính, tri ân của nhân dân địa phương, tưởng nhớ công lao to lớn của các vị tiền nhân có công lao với cộng đồng và cầu cho bản mường no ấm, quanh năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, gia đình hạnh phúc. Lễ hội thường được tổ chức vào tháng giêng khi hoa đào còn rực rỡ trên các sườn non. Lễ hội có các hoạt động như rước cỗ từ nhà tạo mường ra miếu làm lễ, múa hát, đánh trống, chiêng, thi bắn súng hỏa mai và cung nỏ, thi ném còn, chọi gà, thi chim họa mi hót, thi trâu béo khỏe… Hiện nay, lễ hội đã mang nhiều nét mới. Sau nhiều năm mai một, từ năm 2011, huyện Mai Châu đã khôi phục lễ hội và giữ lại lễ hội gần như nguyên gốc các giá trị văn hóa, tín ngưỡng đặc sắc, những nét truyền thống lâu đời của người Thái. Lễ hội Xên mường được tổ chức tại xã Chiềng Châu khá bài bản, bởi nơi đây được coi là điểm phát tích của người Thái di cư từ Bắc Hà về vào khoảng thế kỷ XIII. Đây cũng là hoạt động góp phần tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc, tăng cường quảng bá, giới thiệu lịch sử và tiềm năng văn hóa du lịch Mai Châu, nhất là khi huyện vùng cao này được phê duyệt quy hoạch phát triển điểm du lịch quốc gia Mai Châu đến năm 2030. Người Thái còn biết đến lễ hội Chá chiêng mang đậm màu sắc tín ngưỡng. Năm 2024, huyện Mai Châu càng thêm niềm tự hào khi Keng loóng và Lễ hội Xên Mường được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Hòa Bình, nhiều lễ hội khác cũng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc như lễ cấp sắc của người Dao quần chẹt (lễ đặt tên thánh cho người trưởng thành). Tết Nhảy của người Dao quần chẹt là sinh hoạt tín ngưỡng nhưng lại mang đậm tính lễ hội; đây cũng là một sinh hoạt mang tính gia đình nhưng có sự tham dự của cả cộng đồng người Dao. Do nhu cầu tự thân và hướng tới sự phát triển mới, nhiều lễ hội đã hình thành và mang yếu tố "thời sự”, gắn với kinh tế hàng hóa, quảng bá du lịch như lễ hội cam Cao Phong… Các lễ hội văn hóa nếu nhằm tới những mục đích trong sáng, có ý nghĩa xã hội, tạo cho người dân cơ hội tìm hiểu, gắn kết với nhau để xây dựng quê hương ngày một giàu mạnh chắc chắn sẽ được đón nhận một cách tự nhiên và có sức sống lâu bền.
(Còn nữa)
V.T (TH)
Những con đường mới rộng thênh thang; khu công nghiệp rộn ràng nhịp máy; cánh đồng rau hữu cơ trải dài xanh mướt; khu du lịch thơ mộng mà giàu bản sắc… tất cả vẽ nên bức tranh đầy sức sống của tỉnh Hòa Bình hôm nay. Sự quyết tâm và đồng lòng từ các cấp uỷ, chính quyền đến người dân đã tạo nên những đổi thay từ hành trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng (ĐMMHTT).
Mo là danh xưng của một loại nghề nghiệp, một di sản văn hóa (DSVH) có tính nguyên hợp bao gồm hoạt động kết hợp giữa tín ngưỡng dân gian với văn hóa - văn nghệ dân gian, chỉ thực hiện trong tang lễ và một số nghi lễ tín ngưỡng, nghi lễ vòng đời của người Mường. Với mục đích là nhằm trấn an con người trước các biến động lớn khi ốm đau, chết chóc và thực hiện các nghi lễ trước khi đưa người chết trở về thế giới bên kia.
Từng là nơi người dân cột trâu sau một ngày dài chăn thả, kéo cày giúp làm ra hạt lúa, củ khoai... Không ai ngờ, nơi mái đá có thế cánh cung khiến mưa không hắt, nắng không chiếu đến, nhưng ánh sáng vẫn có thể ngập tràn phía trong từng là nơi tổ tiên người Việt cổ đã sinh ra, lớn lên, lấy việc săn bắn, hái lượm để sống. Những bí ẩn nơi mái đá được chôn giấu cả vạn năm chỉ mới được hé lộ cách đây chưa lâu bởi các chuyên gia khảo cổ trong và ngoài nước...
Cứ dịp tháng Ba đến là khí thế thanh niên tình nguyện, thanh niên xung kích, tinh thần tuổi trẻ lại tăng lên gấp bội. Cùng với tuổi trẻ cả nước, tuổi trẻ tỉnh Hòa Bình sẵn sàng đảm nhận các việc khó, việc mới, chung sức xây dựng nhiều công trình, phần việc cụ thể, quyết tâm cao thực hiện lời dạy của Bác Hồ: "Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”.
Hòa Bình có hai loại trống Đông Sơn: loại I Heger và loại II Heger. Trống Đông Sơn có khung niên đại từ thế kỷ IV trước công nguyên đến thế kỷ V sau công nguyên.
Trong thời kỳ tiền sử của Hòa Bình, nổi bật nhất và đặc trưng nhất là nền Văn hóa Hòa Bình (VHHB). Người Hòa Bình tự hào về lịch sử lâu đời của mình, là địa điểm đầu tiên được phát hiện và được mang tên của một nền văn hóa đặc trưng không chỉ cho riêng Việt Nam mà cho cả các nước Đông Nam Á và phía Nam Trung Quốc: VHHB. Từ việc khai quật các địa điểm di tích hang động tại vùng đá vôi Hòa Bình, năm 1927, nhà khảo cổ người Pháp M.Colani đã cho chúng ta biết đến một "Thời đại đá trong tỉnh Hòa Bình - Bắc Kỳ”. Đến ngày 30/1/1932, nền "VHHB” đã được Đại hội các nhà tiền sử Viễn Đông lần thứ nhất họp tại Hà Nội thừa nhận.