Nhờ sự đầu tư của chương trình 135 nên các hộ dân xóm Lài được sử dụng nước hợp vệ sinh.
(HBĐT) - Đồng Nghê là xã xa nhất, cao nhất, khó khăn nhất của huyện Đà Bắc. Xóm Lài là xóm xa nhất, cao nhất, khó khăn của xã Đồng Nghê. Ở đây chỉ có 15 hộ dân với 80 nhân khẩu sinh sống. Bao năm nay, sống của họ dựa vào rừng. Giờ đây, rừng đã làm cuộc sống của họ dần thay đổi.
Thấy chúng tôi có ý định lên xóm Lài anh Xa Văn Mạnh - Chủ tịch UBND xã Đồng Nghê (Đà Bắc) can: Các anh đi trời này nguy hiểm lắm. Nếu gặp trời mưa thì khó về ngay được. Nếu muốn yên tâm gửi xe máy ở xóm Nghê rồi đi bộ khoảng 5 km thì lên đến nơi. Thấy nói thế nên chúng tôi cũng hơi “chùn” bởi chỉ có người địa phương mới hiểu rõ những con đường nơi đây. Nhưng rồi chúng tôi quyết tâm đi bởi trí tò mò muốn biết xóm Lài, xóm xa nhất, khó khăn nhất của Đồng Nghê, của Đà Bắc như thế nào? Muốn lên xóm Lài có hai con đường: thứ nhất đi từ xóm Nghê lên theo đường mòn rộng chừng 1 m ngược đồi dài hơn 4 km. Với những ai cứng tay lái, đi xe máy một mình mới đi được. Đường thứ hai đi từ xóm Nghê lên xóm Đăm bằng đường rải cấp phối dài hơn 5km rồi đi theo đường rừng hơn 4 km mới lên đến nơi. Những người chưa quen xe máy đi đồi dốc thường chọn đường đi bộ từ xóm Nghê lên chừng hơn hai tiếng đồng hồ. Cuối cùng chúng tôi chọn con đường đi từ xóm Nghê lên thẳng xóm Lài. Dọc đường chúng tôi mới thấm thía được lời anh Mạnh và biết vậy mình chọn cách đi bộ còn “nhàn” hơn khi đi xe máy. Tuy đường nhỏ nhưng vắng, chỉ một mình một đường nhưng phải bám qua những con dốc đường đất dựng đứng. Để cho “lành”, nhiều lúc tôi phải xuống nổ máy dắt xe máy đi. Khác hẳn với thị trấn Đà Bắc, thành phố Hoà Bình đang nắng như đổ lửa, xóm Lài lại có khi hậu se lạnh của mùa thu. Anh Bàn Văn Thọ, Phó công an xã Đồng Nghê đi với chúng tôi cho biết: ở đây quanh năm trời lúc nào cũng se lạnh. Cả năm ngủ không biết đến quạt là gì? Mùa hè hôm nào nắng lắm chỉ dùng quạt lúc buổi trưa để ăn cơm.
Nằm thoai thoải trên sườn đồi, xóm Lài chỉ có 15 hộ dân sinh sống chủ yếu là người dân tộc Dao. Bao bọc lấy xóm là những đồi ngô. Đứng ở giữa xóm nhìn sang bên kia là rừng quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ). Ở cuối xóm có thể nghe tiếng gà gáy của 3 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La và Phú Thọ. Đêm đó, chúng tôi ngủ lại ở xóm Lài nghe bà con kể được nhiều chuyện lý thú. Cách đây gần 100 năm, ở Đồng Nghê rừng núi mịt mùng. Xóm Lài chỉ là cánh rừng già cây cổ thụ tầng tầng lớp lớp không có đường mà đi. Thấy đất đai màu mỡ, tương đối bằng phẳng lại ở trên cao nên hai vợ chồng cụ Bàn Văn Phiêm lên xóm Lài để khai hoang lập nghiệp. Cụ Phiêm kể: ngày đó, cây cổ thụ nhiều vô kể. Đi đến đâu gặp thú rừng ở đó. Làm nhà ở mà thú vào nhà là chuyện bình thường. Chỉ cần mang súng, nỏ ra rừng vài phút là có đồ ăn. Để có đất trồng lúa, ngô, cụ phá hoang đất. Thấy dựa vào rừng dễ sống nên hộ ông Bàn Văn Sênh, Lý Văn Hoà rủ nhau lên. Hàng ngày, cả các hộ chỉ sống bằng săn thú, bắt chim và trồng. Không có đường, xóm biệt lập với thế giới bên ngoài sống tự cung, tự cấp. Những năm kháng chiến chống Mỹ, chống Pháp, với địa hình đồi núi phức tạp nên nơi đây nuôi dưỡng nhiều bộ đội, du kích . Để tránh sự truy lùng của giặc Pháp, bộ độ có thể ở trong rừng hàng tháng trời mà không bị phát hiện. Anh Bàn Văn Thanh, Trưởng xóm cho biết: Đến nay, xóm đã có 15 hộ dân với 80 nhân khẩu sinh sống. Ngoài 3 hộ sống lâu đời ở đây, còn lại hầu hết là các hộ ở Sơn La, Phú Thọ di cư sang. Nhiều năm trước các hộ ở đây sống phụ thuộc vào rừng chủ yếu là săn bắn, khai thác gỗ. Do không có đường ô tô nên xóm Lài biệt lập với thế giới bên ngoài, việc khai thác rừng không được quản lý.
Từ khi Nhà nước chủ trương cấm cửa rừng, người dân trong xóm gặp nhiều khó khăn. Thế rồi được các chương trình, dự án của Nhà nước nên các hộ dần chuyển sang sản xuất nông nghiệp. Ngay cuối xóm là rừng quốc gia Xuân Sơn nhưng do quản lý chặt nên không ai dám vào. Nhiều hộ khai hoang đất, mở mang ruộng nương, đến nay, cả xóm có hơn 4.000 m2‑ lúa và khoảng hơn 10 ha đất đồi trồng ngô. Thu nhập của người dân trong xóm sống chủ yếu dựa vào trồng ngô. Dựa vào đất đai tự nhiên nên các hộ phát triển chăn nuôi trâu, bò hiện cả xóm có gần 100 con trâu, bò. Anh Bàn Văn Thọ cho biết: mỗi năm, gia đình trồng hơn 10 cân ngô giống. Ngoài chi phí giống, phân và công thu hoạch, thu nhập cũng đủ chi tiêu cho cả nhà. Ngoài ra, chăn nuôi trâu, bò cũng đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho gia đình. Tuy không cho thu nhập thường xuyên nhưng đây là tiền bỏ ống. Năm ngoái, em cần mua xe máy chỉ cần bán một con trâu là đủ. Ở đây đồng bãi rộng nên việc chăn nuôi trâu bò thuận lợi. Được sự quan tâm của Nhà nước, năm 2000 chương trình 747 đầu tư kinh phí xây dựng 3 gian nhà lớp học. Chương trình 135 đầu tư 1 bể nước và hệ thống ống dẫn về tận cụm dân cư. Năm 2007, Nhà nước đầu tư xây dựng đường điện về tận xóm, hộ gia đình. Ông Vì Văn Hiềm - Bí thư chi bộ xóm Lài cho biết: nhờ có sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước nên đời sống của người dân trong xóm đã dần cải thiện và quen với cách sống dựa vào rừng. Nhiều hộ gia đình đã biết tìm các giống ngô, lúa mới có năng suất cao đưa vào sản xuất. Đến nay, không còn hộ nào đói, 100% hộ có ti vi, 6 hộ mua được xe máy làm phương tiện đi lại. Có nhà lớp học nên các em được học tiểu học ngay tại xóm. Cuộc sống, nếp nghĩ của người xóm Lài dần thay đổi. Thấy rừng ngay trước mặt mà chẳng ai dám vào rừng lấy gỗ.
Rời xóm Lài khi bà con đang chuẩn bị một vụ thu hoạch ngô, ông Thanh vỗ vai tôi: Tuy thế nhưng xóm Lài vẫn còn khó khăn lắm các anh ạ! Đến giờ chưa có đường ô tô nên phát triển kinh tế còn hạn chế. Để bán được ngô, bà con phải gánh xuống xóm Nghê bán thấp hơn vài giá. Đất thì rộng mà diện tích lúa vẫn còn ít. Chúng tôi mong muốn Nhà nước đầu tư đường ống dẫn nước dài khoảng 1 cây số để khai phá đất hoang hơn 4 ha thành ruộng lúa mà chưa được….
Việt Lâm
(HBĐT) - “Đường đi tới ngày toàn thắng đâu phải được trải bằng nhung lụa, cỏ mềm mà phải được tôn đắp bằng máu xương của biết bao đồng bào, đồng chí là cán bộ, chiến sĩ, TNXP, dân công hỏa tuyến, bộ đội Trường Sơn đã vĩnh viễn nằm lại vì sự sống của con đường.... Cho đến giờ, sau hơn 50 năm đường Trường Sơn được khai mở, vị tướng Tổng tư lệnh Binh đoàn 559, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên vẫn còn bùi ngùi, xúc động khi nói về sự hy sinh của những đồng chí, đồng đội đã hy sinh xương máu trong suốt 16 năm chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam.
(HBĐT) - Thật khó để lý giải cảm xúc trên suốt chặng đường Hồ Chí Minh chạy qua dãy Trường Sơn với đích đến là Nghĩa trang liệt sỹ (NTLS) quốc gia Trường Sơn (Quảng Trị). Dù đã từng được đến đây không ít lần trong những chuyến đi dài ngày nhưng đó chẳng phải là cảm giác nhàm chán thường thấy mà vẫn nguyên sự háo hức như tìm về một nơi chốn bình yên với những khúc hát tuổi 20 còn đọng trong ký ức một thời.
(HBĐT) - Sinh ra, lớn lên ở xã Địch Giáo (Tân Lạc), một vùng đất có truyền thống cách mạng và là con trai duy nhất trong gia đình nông dân có ba chị em. Thời thơ ấu đến khi cắp sách tới trường được nghe kể về ách đô hộ, áp bức, bóc lột của thực dân Pháp cũng như tội ác của đế quốc Mỹ gây bao đau thương cho nhân dân ta. Từ đó đã thôi thúc các thế hệ thanh niên, học sinh trên địa bàn sôi sục lên đường vào Nam đánh Mỹ, trong đó có chàng thanh niên 16 tuổi Bùi Đình Phái.
(HBĐT) - Một tuần, sau khi Tràng A Chia ở bản Xà Lĩnh và 6 người khác ở các bản Thung ảng, Pà Khôm, Hang Kia, Pà Cò con của hai xã Hang Kia, Pà Cò (Mai Châu) tự nguyện trình diện để Công an huyện Mai Châu làm thủ tục đưa xuống Trại tạm giam Công an tỉnh chấp hành án phạt tù, trung tá Sùng A Chếnh, đội trưởng đội an ninh Công an huyện đưa chúng tôi xuống địa bàn anh trực tiếp theo dõi, quản lý.
(HBĐT) - Cho dù chuyện đã xảy ra cách đây cả chục ngày nhưng với những người tưởng chừng bị chôn sống trong vụ sập hầm khai thác than tại xóm Đồi, xã Lỗ Sơn (Tân Lạc) dường như vẫn chưa hết bàng hoàng, sợ hãi. “Đó là những giây phút sợ hãi, tuyệt vọng mà chưa bao giờ mình từng trải qua trong cuộc đời”. Cậu thanh niên trẻ vạm vỡ cuồn cuộn cơ bắp của người siêng làm những công việc nặng nhọc bẽn lẽn kể lại cảm giác hãi hùng khi cùng với 6 công nhân bị mắc kẹt trong vụ sập hầm khai thác than vào buổi sáng ngày 5/7 vừa qua.
(HBĐT) - Bụng to, da xanh xao, nhợt nhạt, mặt mày biến dạng rồi phải sống nhờ máu của người khác. Nếu không truyền máu, bệnh nhân dẫn đến tử vong. Người dân thường gọi là bệnh báng hay còn gọi là bệnh thiếu máu huyết tán bẩm sinh. Bao năm nay, căn bệnh này đã gặm nhấm nhiều gia đình nghèo trên địa bàn tỉnh.