Trẻ cần được tiêm phòng thủy đậu.

Trẻ cần được tiêm phòng thủy đậu.

Theo tin từ Bệnh viện Nhi Đồng I TP. Hồ Chí Minh thì số bệnh nhân mắc thủy đậu phải nhập viện điều trị đã tăng 42% so với tháng trước; số bệnh nhân nhi đến Bệnh viện Bạch Mai khám do mắc bệnh này cũng đã bắt đầu tăng do tháng 3 được coi là tháng cao điểm của bệnh thủy đậu (bệnh thường diễn biến từ tháng 2 đến tháng 6).

Quan niệm sai lầm của nhiều người

Bệnh thủy đậu do virut Varicella zoster gây ra. Nguồn lây bệnh duy nhất là người bệnh qua tiếp xúc trực tiếp hoặc do virut từ đờm dãi, nước mũi, nước bọt của người bệnh bắn sang người lành khi nói, ho, hắt hơi. Virut xâm nhập vào cơ thể qua mũi-họng, rồi theo đường máu đến cư trú ở lớp tế bào thượng bì da và niêm mạc (niêm mạc miệng, kết mạc mắt...) gây nên những nốt phỏng ở đó. Tỷ lệ mắc bệnh thường cao ở các đô thị, nơi đông dân, nhất là lúc giao mùa. Tuổi mắc nhiều nhất là 2-7 tuổi, phần lớn là trẻ chưa được tiêm phòng thủy đậu; ít khi gặp ở trẻ dưới 6 tháng. Người lớn cũng mắc nếu như khi còn nhỏ chưa mắc do khi đã mắc bệnh thủy đậu, người bệnh có thể thu được miễn dịch bền vững. Phụ nữ có thai bị thủy đậu trong nửa đầu của thai kỳ có thể gây dị dạng ở não bộ, da... của bào thai. Nếu trước sinh một tuần, phụ nữ có thai mắc thủy đậu, trẻ sinh ra có nguy cơ bị thủy đậu sơ sinh. Với trẻ suy dinh dưỡng, còi xương, những người bị eczema hoặc có bệnh về máu, bệnh thường nặng, nốt phỏng hay bị loét, hoại tử, có chứa chất nhày màu xám; có khi còn gây viêm thận cấp, viêm tai giữa, viêm phổi, viêm loét giác mạc, viêm tủy thoáng qua, viêm màng não vô khuẩn.

Theo quan niệm của nhiều người, khi mắc bệnh thủy đậu, ở cả trẻ em và người lớn nên kiêng gió, kiêng nước. Tuy nhiên, theo PGS.TS. Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng khoa Nhi - bệnh viện Bạch Mai thì đây là quan niệm sai lầm vì trên da có rất nhiều vi khuẩn sống cộng sinh, bình thường, chúng chung sống hòa bình với con người nhưng khi mắc thủy đậu, các nốt phỏng trên da hay ở niêm mạc có thể gây ngứa ngáy, khó chịu, trẻ không chịu được sẽ gãi và làm trầy xước da. Khi đó nếu không được chăm sóc vệ sinh hay tắm rửa sạch sẽ, vi khuẩn sẽ xâm nhập qua nốt phỏng bị vỡ gây nhiễm khuẩn tại chỗ, thậm chí viêm da nặng có thể dẫn đến biến chứng viêm cầu thận cấp hoặc nhiễm khuẩn huyết. Do vậy, người bệnh thủy đậu cần tắm hàng ngày bằng nước sạch, nếu có thể dùng nước đun các loại lá. Theo kinh nghiệm dân gian có thể dùng lá cây chân vịt, hoàng liên để đun nước tắm thì càng tốt. Chú ý khi tắm không kỳ cọ mạnh, tránh gây vỡ nốt đậu.

Biểu hiện của bệnh thủy đậu trên da trẻ.

Thủy đậu rất dễ lây nên cần cách ly khi trẻ mắc bệnh

Thủy đậu là bệnh lành tính, do virut gây ra nên có đến 90% bệnh sẽ tự khỏi nhưng bệnh cũng rất dễ lây nên khi trẻ mắc thủy đậu cần cách ly trẻ tại nhà từ khi bệnh bắt đầu cho đến khi bong hết vảy. Mục đích là tránh để trẻ lây bệnh cho những trẻ khác tại nhà trẻ hay lớp học. Quần áo, khăn mặt, đồ dùng khác của trẻ phải được giặt bằng xà phòng, nước sạch rồi là trước khi mặc. Chú ý cắt ngắn móng tay, trẻ nhỏ phải cho mang bao tay. Nhỏ mắt, mũi bằng thuốc sát khuẩn như chloramphenicol 0,4% hoặc acgyrol 1% (2-3lần/ngày) cho trẻ. Các nốt phỏng vỡ không nên bôi các loại thuốc mỡ (tetraxilin hay mỡ penixilin...) mà chỉ nên bôi thuốc xanh metylen hoặc các loại milian. Người chăm sóc trẻ cần chú ý không tự ý dùng thuốc kháng sinh khi chưa có sự thăm khám và chỉ định của bác sĩ điều trị. Khi thấy trẻ đột nhiên sốt cao, nốt phỏng mọc dày chi chít, hoặc chảy nước mắt tự nhiên, sợ ánh sáng cần cho trẻ đi khám bệnh ngay.   

                                                                       Theo Báo SKĐS

Các tin khác

Đào nhân.
Không có hình ảnh
Thức ăn đựng trong hộp xốp này liệu có ẩn chứa nguy cơ nào đối với người tiêu dùng?
Không có hình ảnh

Đông y trị bệnh mày đay

Mày đay là một loại dị ứng ngoài da. Theo y học cổ truyền, bệnh thường do phong thấp xâm nhập vào da thịt hoặc trường vị đang có uất nhiệt lại cảm phải phong tà, tà khí tích lại ở da, lông gây ra mày đay. Nguyên nhân chủ yếu là do phong hàn (bên ngoài) hợp với huyết nhiệt (bên trong) và một số thức ăn không thích hợp với cơ thể như tôm, cá... gây ra.

Các thuốc điều trị run vô căn

Run vô căn là bệnh chỉ có một triệu chứng duy nhất đó là run: run tư thế và run khi vận động. Run vô căn xuất hiện âm thầm, tiến triển chậm với tỷ lệ bệnh rất thay đổi và thường nhất là run tay. Các nơi khác theo thứ tự thường gặp là đầu, chi dưới, giọng nói và thân mình.

Giải pháp mới trong phòng ngừa và điều trị bệnh loãng xương

Hiện nay, những tiến bộ ngoạn mục trong thời gian 20 năm qua đã cho ra đời hàng loạt thuốc có hiệu quả quả giảm nguy cơ gãy xương, có thể chia làm 2 nhóm chính: nhớm ức chế tế bào hủy xương Bisphosphonates (như Alendronate, risedronate, zoledronate), Serm (raloxfene), calcitonin… và nhóm kích thích tế bào tạo xương (như strontium ranelate và teriparatide). Tất cả đều đã được thử nghiệm và có hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương từ 30% đến 50%. Tuy nhiên, chỉ có zoledronate được chứng minh là có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong ở bệnh nhân sau khi bị gãy xương.

Hiểu rõ hơn về thuốc trợ tim digoxin

Thuốc trợ tim được hiểu đơn giản là các thuốc làm tăng lực co bóp của cơ tim, dùng trong các trường hợp suy tim. Các thuốc loại này được chia làm hai nhóm chính: thuốc trợ tim không phải glucosid và thuốc trợ tim glucosid, trong đó digoxin là loại thuốc trợ tim tiêu biểu thường được các thầy thuốc sử dụng nhiều nhất trong lâm sàng.

Dùng thuốc ho, thuốc cảm OTC: Khuyến nghị mới cho trẻ dưới 6 tuổi

Hiện ở Mỹ, Canada, thuốc ho, thuốc cảm OTC (thuốc dùng không cần đơn) cho trẻ em dưới 6 tuổi có thể là đơn chất nhưng phần lớn hơn là có ít nhất 2 trong các chất dưới đây: hạ sốt (acetaminohen, ibuprofen), giảm ho (dextromethorphan), kháng histamin (chlopheniramin, phenergan), chống sổ mũi (phenylephrin, pseudomeohedrin, phenylpropanolamin), long đàm (guaifenesin)... Thị trường nước ta thường có các thuốc như siro alimimerazin, atusin, ameflu... cũng chứa 1 hay nhiều thành phần trong các chất nói trên.

Những nguy cơ khi lạm dụng kháng sinh

Dùng KS không có chỉ định của bác sĩ dẫn đến một số vi khuẩn còn sống sót tạo ra chất chống lại KS đó, gọi là hiện tượng kháng KS.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục