(HBĐT) -Đến với xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng, du khách không khỏi ngỡ ngàng và choáng ngợp bởi dãy những lò rèn truyền thống. Giá gỗ treo đủ các loại nông cụ như dao, búa, lưỡi rìu, cuốc, xẻng… kết hợp với tiếng búa đập lên đe kêu chan chát, inh tai đã tạo nên những nét đặc sắc cho hàng trăm lò rèn truyền thống nơi đây.
Du khách thăm quan, tìm hiểu sản phẩm của làng nghề rèn truyền thống xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên (Cao Bằng).
Chúng tôi đến thăm lò rèn truyền thống Long Minh vào một ngày thời tiết khá oi bức. Bỏ quên cái nắng nóng, ngột ngạt của lò nung, người chồng say sưa với những nhát búa đập lên đe, người vợ nhanh chân ra đón khách và giới thiệu các sản phẩm của gia đình. Chị Nhan Thị Yên cho biết: "Hàng ngày, hai vợ chồng bày dao ra giá gỗ trước cửa nhà để bán. Chồng thì rèn, còn tôi ngồi bên cạnh để bán và phụ giúp một số công việc. Đều đặn mỗi ngày, chúng tôi phải dậy từ sáng sớm để chuẩn bị lò nung. Vào mùa đông, công việc dường như có phần nhẹ nhàng hơn nhưng khi hè tới, thời tiết nắng nóng như đổ lửa cộng với môi trường làm việc gần lò củi khiến sức chịu đựng của người thợ càng khó khăn hơn gấp bội. Tuy vất vả và khó khăn là thế, nhưng với mong muốn giữ gìn nghề truyền thống đã có từ lâu đời mà hàng trăm thợ rèn ở đây quyết bám trụ với nghề để mưu sinh”.
Người dân nơi đây chủ yếu là người dân tộc Nùng An. Khi hỏi thăm làng nghề rèn nông cụ Phúc Sen ra đời từ khi nào, đã tồn tại được bao nhiêu năm, ngay cả chính những người dân bản địa cũng không biết chính xác. Họ chỉ biết rằng, nghề này đã tồn tại từ hàng trăm năm nay. Những người thợ rèn trong làng cũng chỉ biết họ được cha, ông truyền lại nghề. Đàn ông trong xã đa phần đều biết và thành thạo công việc rèn nông cụ.
Điều cần thiết để trở thành người thợ rèn đó là sức khỏe, đôi mắt, sự khéo léo và linh hoạt. Sức khỏe tốt giúp họ có được những nhát búa đầy mạnh mẽ, đôi mắt tinh anh giúp đập chính xác hơn. Người thợ phải đồng thời sử dụng tới sức mạnh của đôi tay, sự nhạy bén của đôi tai và đôi mắt. Các công đoạn để làm ra một sản phẩm khá cầu kì. Để chuẩn bị thật chu đáo cho một ngày làm việc, người thợ rèn phải dậy từ sớm để lên lửa cho lò nung. Từ một thanh thép, người thợ rèn sẽ cắt theo kích thước từng loại dao mà bản thân dự định sẽ làm, sau đó, dùng búa tạ để đập tạo hình. Tiếp đến là công đoạn nung đỏ thép nhằm tăng độ cứng, bền cho dao rồi giữ nhiệt và làm nguội bằng cách nhúng vào chậu nước tôi. Ram thép - quá trình nung nóng thép được coi là công đoạn quan trọng, vận dụng tất cả những kinh nghiệm mà người thợ rèn đã đúc kết được qua thời gian. Nếu không tinh mắt và có cảm nhận chuẩn xác thì sản phẩm làm ra sẽ không đạt yêu cầu do nung chưa đạt tới độ chín, sẽ bị dẻo hoặc bị giòn do nung quá già. Mài dao bằng những viên đá mài là công đoạn cuối cùng để người thợ chau truốt những "đứa con tinh thần” của mình sao cho thật sắc bén và vừa mắt.
Những lò rèn ở nơi đây thường sản xuất các sản phẩm nông cụ như búa, liềm, rìu, cuốc… nhưng nhiều nhất là dao. Giá của các sản phẩm dao động trong khoảng từ vài chục đến vài trăm nghìn đồng tùy vào chủng loại và kích cỡ. Dao với kích thước nhỏ nhất có giá là 20.000 đồng, loại dao chặt cỡ to nhất là 150.000 - 200.000 đồng. Những sản phẩm có vỏ được trạm khắc tinh xảo có giá 300.000 đồng. Riêng đối với loại dao chuôi gỗ cẩm có giá thành cao hơn. Để du khách thoải mái thử độ sắc bén của dao, chủ cửa hàng thường đặt tờ giấy và những khúc gỗ bên cạnh. Đối với những chiếc dao có kích thước nhỏ, chỉ việc lướt nhẹ lưỡi dao trên tờ giấy là tờ giấy đã bị tách đôi. Còn những chiếc dao chặt loại to thì du khách thỏa sức chặt các khúc gỗ. Sau khi chặt mà lưỡi dao không hề hấn gì có nghĩa là chiếc dao đó đạt chất lượng.
Những sản phẩm nông cụ với chất lượng sắc, bền, kích thước và độ nặng vừa phải phù hợp với mọi người đã trở thành thương hiệu của xã Phúc Sen, được khẳng định chất lượng qua từng năm tháng. Giờ đây, nghề rèn nông cụ ở xã Phúc Sen không còn đơn giản chỉ là một công việc để mưu sinh của những người thợ rèn, mà còn góp phần bảo tồn, giữ gìn và phát huy nghề truyền thống đã được ông cha truyền lại từ bao thế hệ.
Linh Nhật
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là tuyến vận tải chi viện chiến lược từ hậu phương lớn miền bắc chi viện cho chiến trường miền nam. Năm 1975, đường Trường Sơn đoạn qua Tây Nguyên đã góp phần đưa bộ đội ta tiến quân vào giải phóng Sài Gòn. Sau 44 năm đất nước thống nhất, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh ngày nay đã nâng cấp, mở rộng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra cuộc sống mới trên đại ngàn Trường Sơn.
Những lợi thế không chỉ "theo" Đường Hồ Chí Minh đến với người dân, mà cấp ủy, chính quyền các địa phương, đặc biệt là vùng duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, đã rất nỗ lực phát huy, tận dụng trục dọc xuyên Việt thứ 2 này để thu hút đầu tư, phát triển kinh tế vùng, kết nối và mở rộng quan hệ quốc tế.
Vào khoảng thời gian này cách đây 19 năm về trước, đường Hồ Chí Minh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được khởi công xây dựng.
Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, sứ mệnh của Bộ đội Trường Sơn đã hoàn thành, mở ra hướng chuyển đổi chức năng, nhiệm vụ mới, với ước mong đường mòn Hồ Chí Minh sẽ được phát triển lên một tầm thế mới trong công cuộc dựng xây đất nước.
60 năm trước có con đường đánh dấu mốc lịch sử quan trọng của dân tộc mang tên: Đường mòn Hồ Chí Minh.
Lịch sử đã đưa Thiếu tướng Phan Khắc Hy sát cánh cùng cố Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, gắn bó với đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh, con đường huyết mạch cung cấp binh lực, lương thực, vũ khí cho miền nam. Năm nay dù đã 92 tuổi, nhưng những hồi ức hào hùng, anh dũng vẫn đậm trong ông.