>> Bài 2 - Tìm "chất kết dính” để liên kết bền vững
Phần lớn các mô hình SXNN tại tỉnh còn phát triển với quy mô nhỏ, truyền thống. Do đó, để từng bước đưa ngành nông nghiệp tỉnh vươn lên một vị trí mới, việc xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm chính là "chìa khóa”. Giai đoạn 2015 - 2020, thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo chú trọng xây dựng nền nông nghiệp xanh, thông minh, liên kết theo chuỗi, giá trị gia tăng cao, thích ứng với BĐKH và phát triển bền vững.
Mô hình trồng dưa lưới Inchiba công nghệ cao của Công ty CP đầu tư nông nghiệp công nghệ cao Trường Thịnh, xã Thống Nhất (Lạc Thủy) góp phần nâng cao giá trị nông sản.
Sự vào cuộc của hệ thống chính trị
Giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng GRDP ngành nông, lâm, thủy sản đạt trung bình 4,06%/năm; sản lượng lương thực cây có hạt đạt trung bình 37,2 vạn tấn/năm; diện mạo nông nghiệp - nông dân - nông thôn có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, SXNN phần lớn vẫn manh mún, nhỏ lẻ đã cho thấy rõ sự phát triển chưa tương xứng với những tiềm năng, lợi thế sẵn có của tỉnh. Nguyên nhân do hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp chưa đồng bộ; sản xuất còn phụ thuộc vào thời tiết; khả năng tiếp cận KHCN của người sản xuất chưa đồng đều; liên kết "4 nhà” còn lỏng lẻo…
Để từng bước rút ngắn chặng đường tiến tới nền nông nghiệp hiện đại, phát triển bền vững. Sở NN&PTNT tham mưu ban hành và triển khai thực hiện các đề án, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất trồng trọt đã được Tỉnh ủy, UBND tỉnh phê duyệt như: Quyết định số 1604/QĐ-UBND, ngày 31/8/2015 của UBND tỉnh về phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh đến năm 2020; Quyết định số 33/2015/QĐ-UBND ban hành quy định về cơ chế hỗ trợ tiêu thụ nông sản hàng hóa giai đoạn 2015 - 2020; Quyết định số 23/2017/ QĐ-UBND sửa đổi, bổ sung một số cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa trong lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2015 - 2020... Trên cơ sở đó, các huyện, thành phố tập trung thực hiện lồng ghép nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình phát triển KT-XH gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Tăng cường quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn thực phẩm; rà soát, điều chỉnh, lập mới 9 quy hoạch vùng sản xuất đến năm 2020; đặc biệt là xây dựng chuỗi liên kết, cung cấp thực phẩm nông, lâm, thủy sản…
Công tác xúc tiến thương mại, tiêu thụ sản phẩm được triển khai đa dạng; việc đăng ký, bảo hộ thương hiệu cũng được ngành nông nghiệp quan tâm, chỉ đạo thực hiện. Trong 5 năm (2015 - 2020), ngành nông nghiệp đã xây dựng chỉ dẫn địa lý "Cao Phong” cho sản phẩm cam Cao Phong và 21 nhãn hiệu chứng nhận tập thể; cấp được 9 mã số vùng trồng cho các sản phẩm. Chi cục Quản lý chất lượng (QLCL) nông, lâm sản và thủy sản xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc (TXNG) xác thực chống giả và kết nối cung cầu tại địa chỉ hb.check.net.vn. Đến nay đã có 400 sản phẩm của 72 doanh nghiệp, HTX được quảng bá trên hệ thống và gắn trên 8 triệu tem TXNG.
Tạo nên những chuỗi liên kết nâng cao giá trị nông sản
Về Lạc Thủy - một trong những địa phương có nhiều tiềm năng, thế mạnh trong SXNN. Bước đầu huyện đã hình thành thương hiệu cho một số sản phẩm thế mạnh và liên kết tiêu thụ ổn định tại các thị trường. Một số sản phẩm nông nghiệp ứng dựng công nghệ cao trong sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế, góp phần hiện đại hóa ngành nông nghiệp như: Dưa lưới Inchiba công nghệ cao của Công ty CP đầu tư nông nghiệp công nghệ cao Trường Thịnh, thôn Đồng Huống (xã Thống Nhất); sản phẩm OCOP 4 sao gà tươi nguyên con của HTX chăn nuôi gà Lạc Thủy (xã An Bình) sử dụng công nghệ sơ chế, hút chân không để bảo quản... Đồng chí Ngọ Đình Tâm, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện cho biết: Hàng năm, từ nguồn ngân sách huyện, phòng quan tâm hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm; chú trọng đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ SXNN. Làm tốt công tác tham mưu cho huyện, tích cực triển khai các hoạt động quảng bá, giới thiệu, tạo điều kiện cho các HTX tham gia hội chợ, triển lãm để hỗ trợ tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Đồng chí Nguyễn Hữu Tài, Chi cục trưởng Chi cục QLCL nông, lâm sản và thủy sản đánh giá: 5 năm qua, việc ban hành các quy hoạch, chính sách đã góp phần xây dựng vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn; hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX, hộ sản xuất giảm bớt khó khăn trong đầu tư ban đầu của quá trình SX-KD. Các chuỗi giá trị đã góp phần phát triển sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, bảo vệ thương hiệu vùng miền và quyền lợi của người tiêu dùng. Đồng thời, tạo liên kết ngang giữa các hộ sản xuất nhỏ lẻ, nâng cao năng lực sản xuất, quản trị kinh doanh của các cơ sở, tạo tiền đề hình thành các liên kết dọc từ khâu sản xuất, thu gom, sơ chế đến kinh doanh.
Những vùng sản xuất chuyên canh, cánh đồng lớn dần hình thành. Từ đó tạo nên các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản hiệu quả như: Chuỗi rau an toàn của HTX nông nghiệp hữu cơ Thành An (Lương Sơn); chuỗi cam các loại của HTX nông trại xanh Gfarm Việt Nam (Lạc Thủy); chuỗi chế biến măng các loại của Công ty CP nông lâm sản Kim Bôi... Đến nay, toàn tỉnh đã có 100 chuỗi liên kết sản xuất, cung ứng thực phẩm an toàn với các lĩnh vực sản xuất rau, quả; thủy sản; chăn nuôi; chế biến sản phẩm nông, lâm, thủy sản. Nhiều nông sản thế mạnh của tỉnh đã vào được hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại lớn như: Big C, Hapro Mart, Coop Mark, Lotte… đặc biệt được đưa lên hạng thương gia của hãng hàng không Vietnam Ailrline.
Việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ đã giúp tăng trưởng ngành nông, lâm, thủy sản tăng bình quân trên 4,3%/năm; giá trị sản xuất trên 1 đơn vị canh tác hiện đạt trên 128 triệu đồng/năm. Tuy nhiên, quá trình xây dựng các chuỗi liên kết đã cho thấy nhiều hạn chế. Do đó, để các chuỗi giá trị đảm bảo hoạt động hiệu quả cần tập trung nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương; sự phối hợp đồng bộ của các ngành, cơ quan chuyên môn, đoàn thể và các tổ chức CT-XH.
(Còn nữa)
Thu Hằng