Ông Cao Viết Bảo cho biết, người dân gọi đây là khu giếng nữ.
Hàng bao đời nay người dân xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy vẫn thường kể cho nhau nghe về truyền thuyết đôi "giếng thần” và coi đôi giếng này như một "của hồi môn", một giá trị tinh thần vô giá đối với cộng đồng người Mường nơi đây.
Sự tích "chàng rắn” và cuộc hành trình tìm nới trú ẩn
Trải qua quãng đường gần 100km từ thành phố Thanh Hoá, chúng tôi tìm về xã Cẩm Quý để mục sở thị và nghe câu chuyện kỳ bí về đôi "giếng thần” (giếng trời ban). Các cụ cao niên trong làng Chiềng, xã Cẩm Quý cho biết, đôi "giếng thần" có từ khi nào cũng chẳng ai biết được, người dân nơi đây chỉ biết rằng khi sinh ra đã thấy có đôi giếng nước đó rồi.
Bà Cao Thị Chắt (77 tuổi), người dân tộc Mường, cho biết, từ ngày còn bé bà đã thấy đôi "giếng thần”, nước trong xanh không bao giờ vơi cạn nằm ở đó, hỏi cũng chẳng ai rõ về thời gian xuất hiện hai giếng nước. Bà Chắt chỉ nghe kể lại rằng, trước đây ở làng bà đang ở chỉ có hơn 20 hộ gia đình dân tộc Mường sinh sống. Ngày đó, nơi đây xung quanh còn là rừng rậm hoang vu.
Tương truyền, vào một ngày nọ có người đàn ông họ Cao tên tuổi không ai nhớ rõ, đi xúc tôm, xúc tép ở bờ suối, xúc được một quả trứng to bằng quả trứng ngan, ông nghĩ quả trứng này không còn ăn được nữa liền ném nó đi nhưng lạ thay, mỗi lần xúc tiếp theo quả trứng lại nằm trọn trong rổ, bực mình ông xách rổ ra về mang theo quả trứng.
Về nhà, ông bỏ quả trứng cho gà ấp, hơn một tháng trôi đi trong yên lặng rồi vào một ngày trời đất bỗng tối sầm lại, đàn gà kêu lên thảng thốt, đàn trâu cũng lồng lên trong chuồng, một con rắn màu trắng tinh nằm cuộn tròn trông ổ gà. Thấy đó không phải là điềm lành ông liền mang con rắn đi vứt bỏ nhưng lạ thay, cứ mỗi lần ném nó thật xa thì về nhà lại thấy rắn trên xà nhà.
Vứt bỏ không được, ông đành phải nuôi nó, rồi ông gọi rắn bằng con. Rắn mỗi ngày một to lớn cho đến khi ông già đi không còn đủ sức nuôi rắn nữa, ông nói với rắn rằng: "Bố đã già rồi không còn đủ sức nuôi con nữa. Vì vậy, bố phải mang con đi ở chỗ khác".
Ông bắt đầu cuộc hành trình đi tìm chỗ ở cho chàng rắn. Lúc đầu ông mang rắn đến "vực cùng” của con sông Mã nhưng rắn không đồng ý, hai cha con lại đi, đi hết cánh rừng già này đến vực thẳm khác rắn cũng không đồng ý ở lại. Bực mình, ông liền lấy mai nhằm mình rắn đâm thẳng, may mắn rắn chỉ đứt phần đuôi, thấy máu rắn đổ ra lênh láng, thương rắn ông lại tiếp tục cuộc hành trình đi tìm chỗ ở cho rắn.
Cách xa chỗ làng của ông ở đến mấy ngày đường có một con sông, ở đó có nhiều vực thẳm sông lại không chảy xiết rắn ngụp lên ngụp xuống mấy cái rồi gật đầu ưng ý ở lại. Trước khi ra về ông dặn rắn ở lại đừng quấy phá dân làng xung quanh, rắn bất ngờ khóc và nói với ông bố hãy ước một điều ước để con đền ơn nuôi dưỡng của bố bấy lâu nay. Ông nghĩ làng mình quanh năm khô hạn, bà con phải đi xa mới có nước ăn, vậy con hãy cho làng một nguồn nước không bao giờ cạn để bà con đỡ khổ.
Về đến làng ông thấy có hai cái giếng ùn lên dòng nước vô tận ngập hết một khu vực quanh làng. Và từ đó đền giờ chưa năm nào hai cái giếng cạn nước. Tương truyền rằng, sau này ông họ Cao chết, rắn mang về cúng bố rất nhiều cá rồi từ đó không bao giờ rắn quay trở lại nữa.
Những bí ẩn quanh "Giếng thần”
Thấy nguồn nước quá mạnh, dân làng phải tìm những tảng đá to nhất từ trên núi về chặn bớt sức chảy. Ông Cao Viết Bảo (60 tuổi), người trông coi đôi "giếng thần” cho biết: "Trước đây có tảng đá to lắm nhưng từ khi làng tu sửa lại giếng, đã mang tảng đá ra bắc làm cái cầu đi ở đầu làng rồi”.
Lúc đầu giếng rất sâu nhưng càng tôn cao bao nhiêu nước lại dâng lên bấy nhiêu. Ông Bảo cho biết thêm: "Trước đây cá trong giếng nhiều lắm, có đủ các loại cá nhưng do thanh niên trong làng bắt hết, mấy năm nay không thấy nhiều nữa”.
Tương truyền, sau khi về làm ma cho bố, rắn quay lại sông, rắn ngày một to lớn hơn, thức ăn quanh vùng không đủ ăn nữa, rắn thường xuất hiện quấy phá và ăn thịt những ai qua sông, người dân quanh vùng đã đổ vôi bột xuống sông khiến rắn chết.
Cách đây gần 10 năm, trong lần tu tạo đôi giếng khi cho vôi làm vữa xây thì giếng bất ngờ chảy mạnh và nước đục ngầu lên, dân làng phải xây xi măng thì đôi giếng mới trở lại bình thường, cho đến nay cũng chưa ai giải thích được hiện tượng kỳ lạ này.
Theo bà Nguyễn Thị Hằng (55 tuổi), nhà ngay cạnh đôi giếng thần: "Quanh đây cũng có nhiều cái giếng khác nhau nhưng ít nước hơn, nhà tôi cũng có một cái ở cuối vườn nhưng tôi lấp để làm vườn rồi”.
Hàng năm vào mỗi đêm giao thừa, cả làng lại tụ tập quanh giếng đốt lửa hát hò, nhảy múa. Đúng thời khắc giao thừa, người cao niên nhất trong làng dâng một mâm cỗ gồm một con gà (phải là gà trống tơ), xôi, hoa quả, một chai rượu làm lễ cúng giếng.
Lễ cúng kết thúc, lộc được chia đều cho tất cả những người có mặt. Lễ xong mỗi người lấy một ít nước mang về nhà lấy may đầu năm, phong tục đó đã trở thành thông lệ và không chỉ có người dân ở làng mà còn rất nhiều người từ nơi khác đến lấy nước vào đêm 30 tết mang về cầu mong cho một năm mới gặp nhiều may mắn.
Ông Bảo cho biết, trước đây khung cảnh nên thơ, hùng vĩ đó như tôn thêm vẻ kỳ bí cho đôi giếng Thần. Bà con dân tộc Mường ở làng Chiềng tôn thờ, coi đôi giếng thần này là hiện thân của bản làng và là nơi giao lưu văn hóa tâm linh của bà con trong làng.
Những năm 60, khi phong trào bài trừ mê tín diễn ra mạnh mẽ, cây đa và rừng tre cũng bị người dân nơi đây phá bỏ để làm ruộng. Trải qua thời gian, tấm bia đá khắc những dòng chữ Nho ghi lại lich sử của đôi giếng thần kỳ bí này đã mờ đi phần nào.
Để cho tiện cho việc sinh hoạt hơn, dân làng đã quy định một bên là giếng nam bên kia là giếng nữ, từ đó mới có tên là đôi đôi giếng thần
Ngoài bia đá cổ có khắc chữ nho trong khu vực đôi "giếng thần”, ở giữa làng vẫn còn ngôi mộ tổ của dòng họ Cao đang được con cháu dòng họ Cao thờ cúng. Đây là đôi giếng kỳ bí, là nguồn nước phục vụ cho việc sinh hoạt ăn uống của người dân nơi đây.
HBĐT tổng hợp
(HBĐT) - Nhân dịp Báo Kinh tế & Đô thị tổ chức hội nghị phối hợp với các báo địa phương tuyên truyền về “Kỷ niệm 40 chiến thắng Điện Biên Phủ trên không”, chúng tôi được tham gia chuyến đi thực tế về Ba Vì, vùng đất của những truyền thuyết huyền bí và những dấu ấn lịch sự trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Trong đó, khu di tích Đá Chông và đỉnh Vua - Núi Ba Vì trên độ cao 1.296 m so với mặt nước biển, nơi xây dựng đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng tôi những ấn tượng không thể phai mờ.
(HBĐT) - Đã khá lâu chúng tôi mới có dịp trở lại xã vùng sâu Liên Hòa (Lạc Thủy). Con đường liên xã 438 đi qua địa bàn được rải nhựa êm thuận; trường học, trạm y tế và trụ sở UBND xã được xây mới khang trang. Giờ tan học buổi chiều, cổng trường, các ngõ thôn rộn ràng hẳn lên bởi tiếng trẻ thơ tỏa về những ngôi nhà xây vững chãi thấp thoáng giữa vườn cây ăn quả xanh tươi. Một Liên Hòa nghèo khó, xa xôi ngày nào nay đã gần gũi và thay đổi.
(HBĐT) - Gần 40 năm sau chiến tranh. Đã bước sang thế hệ thứ 3, nhưng vẫn còn đó nỗi đau dai dẳng về thể xác và tinh thần. Nỗi đau mang tên da cam/dioxin vẫn còn là nỗi ám ảnh của hàng nghìn người đã từng tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ.
(HBĐT) - Người ta thường bảo tuổi 15 - 17 là cái tuổi vô lo, vô nghĩ, ăn chưa no, lo chưa tới, là thời kỳ trẻ mới lớn lên nên thể chất, tâm hồn còn non nớt lắm. Thế nhưng ở huyện Đà Bắc, trẻ vị thành niên phải làm vợ, làm mẹ lại là chuyện không hiếm. Trung tâm YTDP huyện Đà Bắc vừa thống kê một con số sửng sốt: 9 tháng năm 2012, toàn huyện có 75 trường hợp trẻ vị thành niên mang thai. Hiện còn 49 trẻ đang được theo dõi, quản lý thai nghén.
(HBĐT) - “Nghiện ma túy. Cuộc sống trước mắt tôi đã từng là vực thẳm. Nhiều khi đứng trước ngôi nhà mình, nhìn vợ và những đứa con vui đùa, tôi đã giật mình tự hỏi: Lẽ nào mình sẽ mất tất cả?”. Cái phút trải lòng rất thật ấy của người đàn ông ngồi trước mặt chúng tôi tại cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện (phường Tân Thịnh - TPHB) đã làm chúng tôi day dứt trên suốt chặng đường về.
(HBĐT) - Giống như một sợi dây nối liền giữa quá khứ và hiện tại, mang trong mình dấu ấn của cả một giai đoạn lịch sử cũng là bằng chứng thể hiện uy quyền, giàu sang, phú quý bậc nhất của những quan lang, dòng tộc của đất Mường Động trong quá khứ. Dẫu vậy, hàng trăm cổ vật ở huyện Kim Bôi có niên đại hàng trăm năm tuổi với những giá trị văn hóa, lịch sử vô cùng lớn hiện vẫn đang bị chất đống, lãng quên trong bụi bặm của thời gian.