(HBĐT) - Vào những ngày tháng Tám, khắp các phố phường, làng bản đều đỏ thắm sắc cờ. Nhìn hình ảnh đó, bà Lan lại xúc động rơm rớm nước mắt. Hẳn là trong màu cờ đỏ đã thắm bao xương máu cha ông trong ánh sao vàng gắn với biểu tượng Tổ quốc thiêng liêng. Nhưng trong lòng bà còn trào dâng một cảm xúc khác. Đó là hình ảnh lá cờ được đặt trong chiếc tủ gỗ quý mà gia đình bà đã lưu giữ bao năm nay. Suốt đêm qua, bà không tài nào chợp mắt được bởi cái ý nghĩ đã ấm ủ bao năm.
Năm ấy, mùa màng thất bát, đã thế nhà quan lại bắt cống nạp rất nhiều. Người trong bản đã vét sạch gạo, lợn, gà để nộp mà vẫn bị hạch sách. Nhiều ngày phải ăn rau rừng, củ dại khiến bà Lan và những người trong nhà hoa mắt, mệt mỏi chỉ muốn gục ngã. Một hôm, bố của bà là ông Bình đi rừng đào củ bỗng nhận ra vết chân lạ trên nương. Theo phản xạ của một thợ săn, ông nhận ra vết chân còn mới liền nấp vào tảng đá lớn nghe ngóng. Ông đoán những người này từ hang đá ra suối nên sớm muộn sẽ quay trở lại.
Đúng như phán đoán, ba người đàn ông mặc áo dân tộc Tày xuất hiện. Họ đi theo hàng dọc, cách nhau một quãng để quan sát. Nhìn kĩ, Bình nhận ra một người trắng trẻo, dáng cao, gầy giống người kẻ chợ. Người cuối cùng là ông Toản - trưởng bản. Thấy Bình, ông Toản dặn dò to nhỏ. Bình tuy chưa hiểu hết ý tứ nhưng khuôn mặt bỗng bừng lên một hy vọng…
Từ bữa đó, Bình kiếm cớ đi săn nhưng thực chất là tiếp tế cho cán bộ Việt Minh. Được nghe cán bộ Lương giác ngộ, anh hiểu ra sự cao cả của người cách mạng, của một chế độ mà người dân cày có ruộng, không còn quan lại, tướng lĩnh đàn áp, bóc lột. Từ đó, phường săn của Bình bên ngoài cải trang là dân đi rừng đặt bẫy, săn bắn nhưng thực chất đã gia nhập đội vũ trang bí mật luyện tập trên nương vắng.
Một ngày, có tin lính Nhật đã bị đẩy lùi. Chúng giờ không còn ngông ngênh như lúc đến mà đã thành con rùa rụt cổ. Bọn lính Pháp thì đã mất mặt, lực lượng vũ trang cách mạng ngày một trưởng thành. Cán bộ Lương hỏi Bình:
- Theo anh Bình, lực lượng của ta có vũ khí gì mạnh nhất?
- Thưa cán bộ, chắc là mấy khẩu súng Lebel, Berthier của Pháp phải không ạ…?
Anh Lương cười, vỗ vào vai Bình:
- Anh là người đi săn, là xạ thủ của đội vũ trang, anh thấy các loại súng đó bắn hiệu quả. Nhưng vũ khí mạnh nhất của ta thì địch không bao giờ có được mà mấy ngàn năm lịch sử đã giúp ông cha ta đánh đuổi ngoại xâm là lòng dân. Không súng gươm nào khuất phục được lòng dân, không có thành lũy, áo giáp nào của kẻ xâm lược cường bạo ngăn được lòng dân…
- À, tôi đã hiểu - Bình như thức tỉnh - dù có cái nỏ thần của An Dương Vương bắn "một phát có thể giết chết hàng nghìn người” cũng không bằng lòng dân.
Anh Lương nói tiếp:
- Thế nên, để hiệu triệu được đồng bào các bản làng, từ các tộc người anh em, chúng ta phải có một lá cờ. Lá cờ ấy như mặt trời để mọi người cùng hướng đến, lá cờ như lửa bếp thiêng giữ hơi ấm bản Mường.
Thế rồi, lá cờ được làm trong một đêm mưa rừng như trút. Mưa ngập lối như thể rửa sạch bùi bặm của quá khứ. Sáng hôm sau, khi đem lá cờ ra cửa hang, ông Bình và những người chiến sĩ thấy sắc cờ ánh lên trong nắng mới. Nếu mai ngày kéo lá cờ đó lên cao sẽ in trên nền trời xanh đẹp lắm, khí phách lắm. Nhưng bao giờ, biết hôm nào mới thành hiện thực.
Một ngày đầu tháng Tám, khi vừa ngụp xuống dòng suối sau ngày đi rừng nắng gắt, Bình giật mình vì có người túm lấy vai mình. Mở choàng mắt ra, trước mặt ông là thằng Tỉn. Nó vốn là đứa từ lâu đã đi khỏi bản. Nghe nói, nó đi theo lái buôn rồi sau đó biệt tăm. Bình cũng chỉ nghe nói thế chứ mấy năm nay chưa tường mặt.
Bình miễn cưỡng theo thằng Tỉn lên ngồi ở tảng đá. Nó đưa cho anh một cái tẩu hút thuốc lá hiệu Imola Nclr của Ý và bảo cầm về cho ông cụ. Nhìn cái tẩu quý, Bình thích lắm nhưng trong đầu lóe lên một sự hồ nghi:
- Sao mày kiếm được cái tẩu quý đó?
- Tao có tiền, đi buôn kiếm được nhiều tao mua. Mày thích không?
Bình nghĩ, dù có tiền cũng chẳng dễ mà mua được vật quý này. Biết đâu… anh chợt nhớ đến lời cán bộ Lương hay căn dặn - nó là tay sai, là Việt gian. Y như rằng, chẳng bao lâu thằng Tỉn bắt đầu dò la hỏi về lực lượng trai bản, về chuyện nghe nói cán bộ về bản, chuyện mấy lò rèn giáo mác…
Chiều hôm ấy, vừa đến gần cửa hang, Bình bất ngờ phát hiện ra toán người đang nấp sau những tảng đá. Nguy hiểm quá, nếu chúng tiến vào hang mà cán bộ Việt Minh và những anh em không rút kịp thì sẽ ảnh hưởng đến đại sự. Nhưng phải làm ám hiệu gì bây giờ?
Một tiếng súng vang lên, thằng Tỉn dẫn bọn tay chân ập đến, chúng chĩa nòng súng vào lùm cây. Trong lúc đó, một nhóm người nhanh như sóc đã đu dây leo thoát ra con đường bí mật trên hang để vòng ra sau núi. Trong bụi cây, Bình đang nằm lăn vật vã, khẩu súng săn lăn lóc bên cạnh.
- Mày định làm gì, định đánh động cho Việt Minh à?
- Ôi, các ông nói gì thế! Súng, súng săn cướp cò, ôi cái chân của tôi…
Dù rất bực bội nhưng lũ Việt gian tay sai đành hậm hực vì tay thợ săn bất cẩn đã làm "con mồi” trong hang biến mất. Chúng không biết rằng, máu từ thân thể của Bình chảy ra không chỉ nhuộm đỏ màu áo chàm mà còn có lá cờ đỏ thắm được giấu ở phía trong.
Lá cờ đỏ đã được gìn giữ cẩn thận cho đến ngày khởi nghĩa ở nơi đây, chính quyền Nhân dân đã thay thế bộ máy quan lại cũ, cán bộ Lương ôm chầm lấy Bình.
- Anh thấy không, lá cờ đang bay phất phới trên bầu trời bản mình. Hôm nay, mai, ngày kia và những ngày sau nữa, cờ đỏ sao vàng sẽ tung bay khắp Việt Nam. Trong lá cờ ấy có cả màu đỏ của dòng máu trung kiên, dũng cảm của người du kích như anh Bình đó.
Sớm nay, bà Lan sẽ mang lá cờ đỏ đã từng thấm dòng máu của người cha đến hiến tặng cho bảo tàng. Với bà, tình cảm với Đảng, Nhân dân, đất nước đều hòa chung trong dòng chảy thiêng liêng sẽ còn truyền lại cho con cháu muôn đời…
Truyện ngắn của Bùi Việt Phương
(HBDDT) - Những ngày tháng 7 này, anh - một cựu chiến binh từng chiến đấu ở chiến trường K lại cùng đồng đội lên tàu xuôi Nam, đến nghĩa trang Đức Cơ (Gia Lai) để quy tập những người con hy sinh bên ngoài Tổ quốc trở về "đất mẹ”. Biết bao ghi chép, thông tin tư liệu về bạn bè, đồng đội, cả người được trở về với cuộc sống đời thường, cả những người bạn đã ngã xuống chưa quy tập được, giờ đang ở đâu đó tại các nghĩa trang vùng biên được anh trân trọng lưu giữ…
(HBĐT) - Ngày trước, khi ba tôi còn chạy tàu chở hàng, ông thường cho tôi theo và hay cập bến sông này để bốc dỡ hàng. Những lúc xong việc, khi người lớn còn bận ăn uống bù khú, tôi hay mượn chú Thức bảo vệ chiếc xe đạp Thống Nhất mà đạp vào các xóm chơi. Chiếc xe đạp khung nam rõ cao làm mông tôi cứ nhấp nhổm, đi xiêu vẹo như một con khỉ rạp xiếc.
(HBĐT) - Ngày cuối tuần, cho mấy đứa nhỏ về quê ngoại nên ông nằm rốn thêm chút nữa. Ôi trời, mấy hôm nay nắng to, bức bối. Nghe radio nói về khí hậu, thời tiết khắp nơi thay đổi, hồ đập cạn dần mà nản. Ông chợt nhớ những ngày hè tuổi nhỏ. Hồi đó, hè có nắng nóng nhưng không gay gắt như hiện nay. Đêm hè, những luồng gió thổi từ sông, hồ, phía núi, dọc con đường làng, len lỏi qua những hàng tre, làm cho không khí mát rượi, dễ chịu hẳn…
(HBĐT) - Lại xôn xao những ngày tháng 6… Màu hoa phượng đã nhạt dần trên những vòm cây cuối phố. Và mưa giăng man mác trên những hàng cây sang mùa quả chín vàng cùng những hàng bàng, hàng lộc vừng mùa hoa rơi rụng. Những ngày nóng oi nồng, bức bách, xen lẫn những cơn mưa mát lành. Lòng bỗng thư thái, chợt nghe những câu văn tha thiết trong "Thương nhớ mười hai” của nhà văn Vũ Bằng và lời bài hát "Tháng sáu trời mưa” vang trong không gian...
(HBĐT) - Tôi có cuốn sổ mua từ hồi sinh viên vẫn đem theo bên mình. Cuốn sổ có bìa màu da đã cũ, không dày lắm nhưng ghi mãi chưa hết. Nó cứ thế lăn lóc theo tôi từ lúc đi thực tập, thử việc cho đến khi ra trường đi làm. Tôi chỉ có thói quen ghi chứ chẳng xem lại bao giờ.