(HBĐT) - Ở thành phố này bấy nhiêu năm, sau bao bận xách va li tới những miền đất lạ, tôi mới nhớ ra ngay kề thành phố mình còn một khu ngoại ô lạ lẫm. Mùa đông, rồi mùa hạ, có bao thứ rau củ xuất hiện trên chiếc đĩa sứ tráng men sáng bóng, những gam màu sinh tố trong li thủy tinh nhưng đã mấy ai biết được mảnh đất ngoại ô nhỏ bé đã phôi thai những sắc màu ấy như thế nào.
Con đường nhựa bé nhỏ men theo đồi vắng đã có những thửa ruộng xinh xinh vỗ về ấm áp. Thật lạ, ở đâu có ruộng là ở đó có sự ấm cúng lạ thường của một đời sống nông nghiệp, một sinh khí làng quê hồn hậu. Ruộng mùa này đang để ải, bên lề cỏ hoa đồng nội vẫn trổ bông tím biếc khiến bước chân người khách từ phố thị thêm ngỡ ngàng, để rồi cứ đi tiếp mãi như đang bị hút hồn bởi vẻ hoang sơ, mộc mạc.
Tôi được nghe kể: Xưa, ngoại ô là một xã nằm men bờ sông Đà. Con sông hung hãn trong tùy bút Nguyễn Tuân đã từng vào hùa với Thủy Tinh dâng nước lên núi Tản. Con sông từng biến những quả đồi xanh tươi ven đất cổ Hòa Bình thành những hòn non bộ. Nhưng chỉ qua một quèn sông phù sa đặc sánh, nước đã lặng. Lặng đến mơ màng, như muốn thay tên, đổi họ, cố giấu đi quá khứ trên thượng nguồn hiểm ác mà làm thân với bờ bãi trung du. Từ đây nhìn xuống, dòng sông thoáng hiện rồi ngại ngùng xuôi về phía Trung Hà nhưng vẫn không quên gửi lại vị gió mát lành cho vườn tược, đồi rừng để lại một dư ba văn hóa đa tầng của đất Yên Mông này. Vào phố chợ chợt gặp bác thợ già đang cặm cụi đóng thuyền. Chỉ dăm bước chân lại đã thấy chàng trai trẻ đang loay hoay sửa chiếc lồng lên đồi bẫy chim rừng. Sông chưa rời phố, rừng vẫn hẹn sông, trăm thứ hoa trái xuống thuyền về xuôi. Nết ăn ở của người xuôi ngược bến đò lên làm sang phố mới. Dọc theo con đường ấy, tôi bắt gặp ngòi Thia hoang dại. Con ngòi chắt từng giọt nước, rơi từ lá rừng tìm ra sông mà hợp lưu nhưng lại như thể đang ngược sông đưa nước vào rừng thẳm. Dòng nước hiền hòa, bé nhỏ được bản Mường gìn giữ vẫn nguyên dòng xanh trong mà không bị vùi lấp bởi ngẫu nhiên của đô thị hóa. Đứng từ chiếc cầu bê tông trên ngòi nhìn xuống cả một dải đồi chợt gợi cho ta nghĩ tới cái mạch sống, nếp nghĩ của cha ông xưa mạch lạc như đường nét phong thủy. Mỗi con ngòi, dòng suối là một chứng tích cho sự sinh thành văn hóa lấy ứng xử với thiên nhiên mà tạo lập cái ăn, cái mặc, dựng nhà, lập làng của người Việt xưa.
Qua ngòi Thia là đò bến Bún. Bến sông cổ xưa và quan trọng nhất đã góp phần giữ lại cho ngoại ô nếp sống cổ truyền. Người dân ở đây không cần ngược ra phố, không bị cái ồn ã của cầu cảng làm đổi thay. Chính bến sông này là nơi giao tiếp, đổi trác đặc biệt nhất. Trăm thứ lâm thổ sản đã xuống bến về xuôi. Lại có bao thứ hàng hóa, bao thợ thuyền, thương lái ngược bến lên đây sinh sống. Chính sự hoang sơ, vắng lặng đã thành một phép thanh lọc những thói thường chợ búa. Con đường duy nhất ấy được định danh bằng một tấm bảng gỗ viết sơn trắng. Có lẽ sẽ chẳng có ở đâu sự mộc mạc đến từ một nhịp sống chậm rãi và hiền hòa như chốn này.
Con đường nhỏ xuống đến khu phố nhỏ mươi hàng quán. Quán xá ở đây là những căn nhà bé nhỏ nép dưới lùm cây, không bị nhịp sống thương trường lấy đi nếp sinh hoạt bình dị quê mùa. Bên ngoài là cửa hàng, bên trong vẫn là vườn cây, ao cá, tiếng lợn dụi mõm trong chuồng, đàn gà mải kiếm mồi nhao ra ngoài mặt đường nhựa. Tôi cố gắng lục trong trí nhớ một ngôi nhà xưa cũ, tên một người con gái gắn với loài hoa mọc bên thềm nhà, nhưng có lẽ tất cả đã chìm vào quên lãng. Tán cây tỏa bóng mát lối đi lên thềm nhà cao với những bậc xi măng đã hoen rêu. Nắng cuối thu yên ả lọt qua kẽ lá điểm những chấm sáng trên thềm nhà yên ắng. Có điều gì đó rất xa, lại như chưa hề thay đổi. Thời gian như ngừng trôi, lắng đọng ngoài cầu ngòi Thia, bến Bún để mảnh đất này lặng lẽ, xanh tươi như một chốn “đào hoa nguyên ký” không có tuổi. Bóng cây như cũng chững lại trên mép sân gạch mộc lát nghiêng mà khắc ghi một dấu chân ai từng để lại. Người con gái ấy đã xuống thuyền theo chồng về dưới xuôi từ ngày ấy. Mười năm có phải là chỉ mới hôm qua đâu mà đất ngoại ô vẫn bình yên thế? Thành phố còn rất trẻ nhưng ngoại ô chưa kịp già đi trong tâm trí mỗi người, để rồi, ai chợt nao lòng nhớ quê hương thì vẫn còn đấy một lối đi về…
Tản văn của Bùi Việt Phương
(HBĐT) - Nền văn minh lúa nước, mùa vụ, canh tác… là những thuật ngữ trong sách vở giúp tôi hiểu về nông thôn. Thuở bé, giữa nếp nhà giữa miền non cao, đèo dốc, trong gió rừng mát rượi, nghe lời ru của bà, tôi vẫn mơ mơ hồ hồ về quê hương đồng bằng có gốc gác cha ông. Thế là phải đến khi thành một chàng trai, tôi mới khăn gói về đồng bằng, cảm nhận mộc mạc mà sâu lắng của ngàn đời tổ tiên cấy hái, kháng cự và dung hòa với nắng, mưa, trời, đất. Hơi đất ấm phả vào gan bàn chân giúp bước những bước đi tự tin hơn.
(HBĐT) - Tôi xóa tên Hạnh khỏi danh bạ điện thoại. Em đã có người yêu, em gọi là bạn trai, người em chọn, em cảm thấy được che chở. Thế là 091234… dễ nhớ rồi cũng cần phải quên. Hình ảnh thùng rác hiện lên rồi biến mất. Mọi thứ không muốn nghĩ đến đều bay vào biểu tượng đó mà tôi không biết nó nằm ở đâu trong các thư mục.
(HBĐT) - Vậy là đã bốn mươi hai năm đi qua kể từ ngày Sài Gòn giải phóng. Năm nay kỷ niệm bốn mươi lăm năm bọn bạn cùng làng, cùng trang lứa lên đường nhập ngũ. Giữa cái nắng mùa hè 1972, sau chiến thắng Quảng Trị, bọn bạn Điền, Vang lại xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ.
(HBĐT) - Tháng ba về, xa quê nhớ về ngôi nhà của mẹ. Nhà mẹ ở một vùng quê chưa mưa đã lụt, chưa nắng đã hạn. Thời tiết khắc nghiệt thế mà mẹ và dân quê đã một nắng, hai sương để “bắt sỏi đá cũng thành cơm gạo”.
(HBĐT) - Chiến tranh đã lùi xa, những vết thương trên thân mình Tổ quốc đang liền da, kín miệng nhưng vẫn còn lại nỗi đau không thể nguôi ngoai của những thân nhân liệt sỹ, nhất là những gia đình chưa biết con em của mình hiện nằm lại ở nơi nào. Tôi và gia đình mình cũng không thể nguôi ngoai trước nỗi đau này. Người anh hy sinh thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước, mặc dù hàng chục năm qua, gia đình đã cất công tìm kiếm khắp nơi mà không có manh mối gì.