(HBĐT) - Bản Suối Rằm thuộc xã Cun Pheo, huyện Mai Châu nằm trên núi cao, là địa bàn giáp ranh của 3 tỉnh: Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La. Bản có 24 hộ dân là người Mông di cư tự do ở các tỉnh Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La, Yên Bái tụ hợp lại. Giao thông khó khăn nên trẻ em không thể đến trường. Nhưng rồi có một "bà giáo” tình nguyện lên đây dạy học để các em biết đến con chữ.


Bà Bùi Thị Kiên (ngồi giữa) kể chuyện học ở bản Suối Rằm, xã Cun Pheo (Mai Châu).

Bà Bùi Thị Kiên sống ở xóm Cun, xã Cun Pheo, cách bản Suối Rằm khoảng 20 km. Bà không phải là công dân của bản Suối Rằm. Gia đình khó khăn nên bà Kiên nhận lời trông lán thuê cho người quen có đất ở bản Suối Rằm. Cách đây 3 tháng, bà Kiên lên bản Suối Rằm làm thuê cho một người cùng bản có trang trại ở đây. Những ngày sống ở nơi gió núi mây ngàn này, bà thường xuyên đến các gia đình người Mông chơi. Các hộ dân nơi đây cuộc sống vô cùng khó khăn, nhà dựng bằng phên tre nứa ghép lại. Cuộc sống của người dân Suối Rằm đơn giản, sáng họ đi trồng ngô, trồng lúa trên núi đến tối về. Trẻ em sinh ra đến lúc lớn lên không được đến trường, ít đứa trẻ nói được tiếng phổ thông. Cảm thông với những đứa trẻ ở đây, bà Kiên quyết định dạy chữ cho trẻ. Bà Kiên đã đưa kế hoạch ra bàn với các hộ trong bản, bà con không ai tin. Sau nhiều ngày thuyết phục, một số hộ đồng ý để bà Kiên mở lớp dạy chữ cho con em mình.

Một vài người đến lán của bà Kiên cùng san gạt góc đồi làm lớp học. Lớp học chỉ đơn giản vài cái cọc, che bạt tránh mưa nắng. Bàn ghế được ghép lại bằng mấy tấm ván cũ. Không có bảng, không có phấn, bà dùng tấm ván cũ làm bảng. Phấn viết dùng than củi. Lớp học thiếu thốn trăm bề nhưng cũng được "khai giảng”. Lần đầu tiên bản Suối Rằm có một lớp học cho bọn trẻ. Buổi đầu có 19 học sinh đến lớp. Bà Kiên chưa từng học qua lớp sư phạm nào, bà cứ lấy tấm lòng nhiệt tình của mình ra dạy các cháu, biết đến đâu dạy đến đó. Sự cố gắng của bà sau một thời gian nhiều cháu đã biết đọc những chữ đầu tiên. Đến nay lớp học đã diễn ra được hơn 1 tháng. Học sinh đến lớp tương đối đều đặn, bà Kiên đã nhớ tên học sinh.

Hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh khó khăn của học sinh ở bản, ông chủ của bà Kiên đã mua một cái bảng đen và phấn trắng ủng hộ bà dạy học. Bà Kiên kể: Giờ trẻ đã viết và đọc được tên của mình. Vui hơn là chúng có thể nói được tiếng phổ thông. Từ đây, việc giao tiếp giữa tôi và bọn trẻ dễ dàng hơn. Tôi biết đến đâu dạy chúng đến đó. Mình không phải là cô giáo, nhưng nghe chúng gọi là cô giáo tôi thấy thật hạnh phúc.

Vào thăm chỗ ở của bà Kiên thấy cuộc sống của bà thật đơn sơ. Dưới mái nhà tranh tre dựng tạm, đồ đạc chỉ có vài cái xoong, nồi cùng chiếc giường được làm từ phên tre ghép lại. Ngoài thời gian làm việc cho ông chủ, bà chăm chút cho lớp học. Sau mỗi ngày, lớp học được ghép thêm bởi những phên tre. "Mùa đông ở nơi này lạnh tê tái, nhìn các cháu ngồi học giữa bốn bề gió lùa mà tôi rơi nước mắt. Điều đó càng thôi thúc tôi phải cố gắng nhiều hơn nữa. Các cháu biết đọc, biết viết, biết nói tiếng phổ thông là phần thưởng lớn nhất. Cuộc đời tôi đã từng đi học lớp xóa mù chữ, chưa bao giờ tôi nghĩ mình lại trở thành "bà giáo” bất đắc dĩ như thế này”.

Lớp học hiện lên giữa bốn bề gió lùa. 4 cái ghế ngồi kín học sinh. Cháu lớn 15 tuổi, cháu nhỏ mới 7 tuổi. Bà Kiên cho hay: Đa phần học sinh trong lớp chưa nói được tiếng phổ thông nên việc dạy học rất vất vả. Buổi dạy học đầu tiên học sinh chỉ biết chào cô giáo bằng tiếng Mông: "nho zoong”, "pù say”, nghĩa là chào cô giáo. Bà Kiên không biết nói tiếng Mông cũng học mót vài tiếng chào của học sinh. Bà cứ theo cái nếp đó mà dạy chúng nói tiếng phổ thông. Từ đầu tiên bà dạy là "Chào cô giáo". Bọn trẻ đồng thanh đánh vần.

Một tuần bà Kiên mở lớp khoảng 5 buổi sáng. Học sinh đến lớp với quần áo lấm lem, vá chằng vá đụp, đầu tóc bết cứng như cây lau bên rừng. "Nhìn các cháu tôi thương lắm! Sau mỗi buổi học tôi rút kinh nghiệm ra cách dạy, cách động viên các cháu học tốt hơn”. Ước mong của bà Kiên là dạy được cho tất cả trẻ nhỏ nơi đây biết đọc, biết viết tiếng Việt là niềm hạnh phúc của bà.
 

Việt Lâm


Các tin khác


Bí thư chi đoàn thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm từ nuôi cá lồng

Qua tìm hiểu, anh Nguyễn Văn Lân, Bí thư chi đoàn tổ Vôi, phường Thái Bình, TP Hòa Bình đã tận dụng điều kiện tự nhiên sẵn có của quê hương, mạnh dạn đầu tư xây dựng mô hình nuôi cá lồng trên lòng hồ thủy điện Hòa Bình, trở thành tấm gương sáng về khởi nghiệp của thanh niên trên địa bàn.

Thoát nghèo từ mô hình nuôi ong và trồng bưởi đỏ

Tận dụng lợi thế đồi rừng, những năm qua, nông dân xã Tử Nê, huyện Tân Lạc đẩy mạnh phát triển kinh tế, trong đó có nghề nuôi ong lấy mật mang lại hiệu quả cao. Tiêu biểu là gia đình anh Bùi Văn Liêm ở xóm Cú. Với ưu thế nhà gần rừng có nhiều loại cây và các loại hoa rừng, tốt cho việc nuôi ong, anh Liêm đã tìm tòi, học hỏi qua các phương tiện thông tin đại chúng và các hộ nuôi ong trong vùng, từ đó đầu tư trên 50 tổ ong nuôi lấy mật.

Khởi nghiệp từ đặc sản quê hương

Nhận thấy quê hương có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển du lịch, anh Hà Công Hưng, Phó Bí thư Đoàn xã Mai Hịch (Mai Châu) bắt tay vào làm sản phẩm thịt gác bếp với mong muốn mang đặc sản của quê hương đến với du khách trong nước và quốc tế.

Bùi Đình Văn - gương sáng phát triển kinh tế

Trong những năm qua, phong trào đoàn viên, thanh niên vượt khó làm kinh tế được tuổi trẻ xã Lỗ Sơn, huyện Tân Lạc tích cực hưởng ứng. Ngày càng có nhiều đoàn viên, thanh niên bằng khát vọng vươn lên làm giàu, dám nghĩ, dám làm đi lên từ hai bàn tay trắng để trở thành những thanh niên tiêu biểu làm kinh tế giỏi của huyện.

Người phát triển nghề mây tre đan trên quê hương Mường Động

Từ một phụ nữ thuần nông, chị Nguyễn Thị Nhung ở xóm Quê Rù, xã Vĩnh Đồng (Kim Bôi) mạnh dạn về xuôi tìm hiểu và theo học làm mây tre đan với mong muốn chuyển đổi nghề, từng bước cải thiện sinh kế. Sau nhiều nỗ lực, chị trở thành người có tay nghề vững, được Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên (GDNN - GDTX) huyện mời về làm giáo viên thỉnh giảng. Quá trình giảng dạy chị vừa truyền nghề, vừa đứng ra làm đầu mối tiêu thụ sản phẩm cho học viên.

Người phụ nữ giàu lòng nhân ái

Bà Nguyễn Thị Nụ ở tiểu khu Thạch Lý, thị trấn Đà Bắc (Đà Bắc) được biết đến là người phụ nữ giản dị, giàu lòng nhân ái. Mặc dù kinh tế gia đình không dư giả nhưng với gần 10 năm làm công tác thiện nguyện cũng đủ nói lên tấm lòng nhân ái, sống có trách nhiệm, biết sẻ chia với những hoàn cảnh khó khăn của bà.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục